Gmail

Fanpage

Liên hệ

image banner
     
image banner
image banner
image banner
MỘT SỐ DI TÍCH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN THỜI ĐINH – TIỀN LÊ TRÊN ĐẤT NINH BÌNH. GIẢI PHÁP NÂNG CAO QUẢN LÝ
Trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, ở bất kỳ nơi đâu trên đất Việt chúng ta đều bắt gặp những di tích lịch sử - văn hoá như: đình, chùa, đền, miếu, lăng tẩm... Đây chính là tài sản vô cùng quý giá mà cha ông ta đã để lại cho thế hệ hôm nay.

Di tích lịch sử - văn hoá là những trang sử sống có sức thuyết phục đối với mọi thế hệ vì ở đó mang dấu ấn của lịch sử, hơi thở của thời đại truyền lại cho muôn đời sau. Những di tích lịch sử ấy được coi như bảo tàng sống về kiến thức, điêu khắc, nghệ thuật trang trí và những giá trị văn hoá phi vật thể. Gìn giữ những di tích lịch sử - văn hoá không chỉ đơn thuần là gìn giữ những thành quả vật chất của người xưa, mà hơn hết là biết tiếp tục kế thừa và phát huy sáng tạo ra những giá trị văn hoá mới, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.

            Di tích thế kỷ X là một trong những nét đặc sắc tiêu biểu của Ninh Bình nói riêng và Việt Nam nói chung. Trong chuyên đề này chúng tôi thống kê sơ lược các di tích liên quan tới thời Đinh – Tiền lê trên đất Ninh Bình như sau:

  1. Một số di tích liên quan đến thời Đinh – Tiền Lê

Stt

Tên di tích

Địa chỉ

Sự kiện, Nhân vật thờ

Ghi chú

(xếp hạng)

 

THÀNH PHỐ NINH BÌNH

  1. Di tích đã xếp hạng

4

1

Chùa Đẩu Long

Phường Tân Thành

- Nguyễn Bặc

- Phổ Hộ đại vương

- Lê Đại Hành Hoàng đế

- Trương Hán Siêu

- Trần Hưng Đạo

- Thờ Phật; thờ Mẫu

Cấp Quốc gia 1994

2

Chùa A Nậu

Phường Ninh Khánh

Xung quanh có di vật thế kỷ X

 

3

Đền Đồng Bến

Phường Đông Thành

- Lê Đại Hành Hoàng đế

Cấp tỉnh 2004

4

Chùa Yên Khoái Thượng

Xã Ninh Phúc

- Thờ Phật

-Thờ tướng triều Đinh

Cấp tỉnh 2012

  1. Di tích chưa xếp hạng

2

1

Đền Phúc Trung

Xã Ninh Phúc

Thờ tướng nhà Đinh

 

 

2

Đền Hiềm

Phường Phúc Thành

Tương truyền là thờ 1 trong tứ trụ triều Đinh

 

HUYỆN HOA LƯ

  1. Di tích đã xếp hạng

25

1

Khu vực núi đá Trường Yên và đền vua Đinh, vua Lê

Xã Trường Yên

 

Cấp Quốc gia năm 1962 (2012 Cấp Quốc gia đặc biệt)

2

Chùa và động Hoa Sơn

Xã Ninh Hoà

Tương truyền là nơi nuôi ấu chúa nhà Đinh

Cấp Quốc gia 1998

3

Đình Ngô Khê Hạ

Xã Ninh Hoà

Định Quốc công Nguyễn Bặc

Cấp Quốc gia 2001

4

Đền Hành Khiển

Xã Ninh Hòa

Định quốc công Nguyễn Bặc

Cấp tỉnh 2004

5

Đình làng Thanh Khê Hạ

Xã Ninh Hòa

-Thờ thành hoàng làng và Định quốc công Nguyễn Bặc

Cấp tỉnh 2010

6

Đình làng Ngô Khê Thượng

Xã Ninh Hoà

- Định quốc công Nguyễn Bặc

- Lực Lộ đại vương

 

Cấp tỉnh 2010

7

Chùa Nhất Trụ

Xã Trường Yên

Thờ Phật, được dựng thế kỷ X

Cấp Quốc gia 1998

8

Động Am Tiên

Xã Trường Yên

Nơi vua Đinh nhốt hổ trừng trị kẻ có tội

Cấp Quốc gia 1998

9

Đình Yên Trạch

Xã Trường Yên

- Vua Đinh Tiên Hoàng

- Vua Lê Đại Hành

Cấp Quốc gia 2001

10

Chùa Ngần

Xã Trường Yên

Tương truyền được xây dựng thế kỷ X

Cấp Quốc gia 2001

11

Phủ Đông Vương

Xã Trường Yên

- Đông Thành vương Lê Ngân Tích (con vua Lê Đại Hành)

- Thờ Mẫu Liễu Hạnh

Cấp Quốc gia 2001

12

Phủ Kình Thiên

Xã Trường Yên

- Thờ Kình Thiên Đại vương

Cấp Quốc gia 2001

13

Đền thờ Thục Tiết công chúa

Xã Trường Yên

Thờ con gái vua Đinh Tiên Hoàng

Cấp Quốc gia 2001

14

Bia Cửa Đông

Xã Trường Yên

Ghi lại dấu tích con đường Tiến Yết vào kinh đô Hoa Lư

Cấp Quốc gia 2001

15

Lăng vua Đinh và lăng vua Lê

Xã Trường Yên

 

Cấp Quốc gia 2001

16

Chùa Bà Ngô

Xã Trường Yên

Tương truyền được xây dựng thế kỷ X

Cấp tỉnh 2011

18

Đình Yên Thành

Xã Trường Yên

- Vua Đinh Tiên Hoàng

- Vua Lê Đại Hành

Cấp tỉnh 2006

19

Đền Kê Hạ

Xã Ninh Vân

Phối thờ vua Đinh Tiên Hoàng

Cấp Quốc gia 1997

20

Chùa, động Thiên Tôn

TT Thiên Tôn

Tương truyền là tiền đồn Kinh thành Hoa Lư

Cấp Quốc gia 1962

21

Đền Đa Giá Hạ

TT Thiên Tôn

Nằm trong khu vực tiền đồn Kinh thành Hoa Lư

Cấp Quốc gia 1994

22

Hang Muối

Xã Trường Yên

Địa điểm liên quan tới thế kỷ X

Cấp Quốc gia

23

Hang Quàn

Xã Trường Yên

Địa điểm liên quan tới thế kỷ X

Cấp Quốc gia

24

Chùa Phong Phú

Xã Ninh Giang

Xung quanh có gạch ngói TK X

Cấp Quốc gia 1997

25

Đình Trung Trữ

Xã Ninh Giang

Thờ Đinh Tiên Hoàng; Lê Đại Hành; Dương Vân Nga

Cấp Quốc gia 1990

  1. Di tích chưa xếp hạng

20

1

Động Liên Hoa

Xã Trường Yên

Thờ vị tướng triều Đinh là Tả Thanh Trù và Hữu Thanh Trù

 

2

Chùa Thủ

(chùa Duyên Ninh)

Xã Trường Yên

Tương truyền là địa điểm cung điện thế kỷ X

 

3

Bia cầu Dền

Xã Trường Yên

Tương truyền cầu có từ thế kỷ X

 

4

Đền Bim

Xã Trường Yên

Tương truyền là thờ Nguyễn Bặc

 

5

Phủ Đột

Xã Trường Yên

Thờ Đinh Triều tả, hữu thái quan

 

6

Phủ làng Thong

Xã Trường Yên

Thờ Úy Vận Dần (tướng triều Đinh)

 

7

Phủ Áng Lẫm

Xã Trường Yên

Thờ Đinh Triều tả, hữu thái quan

 

8

Phủ Áng Mương

Xã Trường Yên

Thờ Đinh Triều tả, hữu thái quan

 

9

Phủ chúa Phù Dung

Xã Trường Yên

Thờ con gái vua Đinh

 

10

Phủ Ngòi Gai

Xã Trường Yên

Thờ Đinh Triều tả, hữu thái quan

 

11

Phủ Đông Thành

Xã Trường Yên

Tướng coi phủ phía Đông Kinh thành Hoa Lư

 

12

Phủ Thong Khống

Xã Trường Yên

Thờ 2 vị tướng triều Đinh

 

13

Phủ Đầu Tường

Xã Trường Yên

Thờ Điển thủ thành đại tướng quân

 

14

Phủ Tùng Xẻo

Xã Trường Yên

Thờ tướng triều Đinh chuyên xử tội cực hình

 

15

Phủ Chợ

Xã Trường Yên

Thờ Ngũ Lầu đại vương là tướng triều Đinh

 

16

Đền Xếch

Xã Ninh Xuân

Thờ vị tướng triều Đinh

 

17

Đền Ngoài

Xã Ninh Xuân

Thờ vị tướng triều Đinh

 

18

Đền Trên

Xã Ninh Xuân

Thờ vị tướng triều Đinh

 

19

Đền Trong

Xã Ninh Xuân

Thờ vị tướng triều Đinh

 

20

Đền Hang Đại

Xã Ninh Xuân

Thờ vị tướng triều Đinh: Tả thanh Trù và Hữu Thanh Trù

 

 

HUYỆN GIA VIỄN

  1. Di tích đã xếp hạng

7

1

Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng

Xã Gia Phương

Thờ vua Đinh Tiên Hoàng

Cấp Quốc gia 1993

2

Động Hoa Lư

Xã Gia Hưng

Là căn cứ ban đầu của Đinh Bộ Lĩnh

Cấp Quốc gia 1996

3

Nhà thờ và mộ Nguyễn Bặc

Xã Gia Phương

Thờ Định quốc công Nguyễn Bặc

Cấp Quốc gia 1998

4

Đình Bình Khang

Xã Liên Sơn

- Quý Minh Đại Vương

- Đinh Tiên Hoàng

- Lê đại Hành

- Lý Thái Tổ

Cấp tỉnh 2008

5

Đình Trai

Xã Gia Hưng

- Đinh Tiên Hoàng

- Bảo Quang Hoàng thái hậu

- Lý  Công Uẩn

- Hoàng hậu của Lý Công Uẩn

- Quốc sư Nguyễn Minh Không

- Bản cảnh thành hoàng

 

Cấp tỉnh 2004

6

Đình làng Kính Chúc

Xã Gia Phú

- Đinh Tiên Hoàng

- Lý Thái Tổ

- Nguyễn Minh Không

- Bảo Quang Hoàng thái hậu

- Lý Thái Tổ Cao hoàng hậu

- Thuỷ Tinh công chúa

- Bách gia tiên tổ

Cấp tỉnh 2005

7

Đình Thượng Ngô Đồng

Xã Gia Phú

- Vua Đinh Tiên Hoàng

- Nguyễn Minh Không

Cấp tỉnh 2005

  1. Di tích chưa xếp hạng

5

1

Núi Kỳ Lân

Xã Gia Phương

Tương truyền có mộ phát tích của vua Đinh

 

2

Chùa Hưng Long

Xã Gia Phương

Thờ Phật ở bên trong, thờ vọng Đinh Tiên Hoàng

 

3

Đình Viến

Xã Gia Hưng

Thờ Đinh Tiên Hoàng đế, Thái hậu Dương Vân Nga và Lý Công Uẩn

 

4

Đền Quan Thái Bảo

Xã Liên Sơn

Thờ Trịnh Tú

 

5

Đền Thượng

Xã Gia Phú

- Thờ Đinh Tiên Hoàng đế

-Thành Hoàng Làng

 

 

 

HUYỆN YÊN KHÁNH

  1. Di tích xếp hạng

7

1

Đền Tam Thánh và chùa Yên Lữ

Xã Khánh An

- Đền thờ Đinh Điền; Thượng Trân trưởng công chúa; Kiều Mộc thiền sư

- Chùa thờ Phật.

Cấp Quốc gia 1998

2

Đình Yên Phú

Xã Khánh An

Thờ Đinh Điền; Thượng Trân trưởng công chúa; Kiều Mộc Thiền sư; Lịch Lộ đại vương; Thái y Phúc Trạch đại vương

Cấp Quốc gia 2001

3

Đình và chùa thôn Tân

Xã Khánh Lợi

- Hai vị tướng của vua Đinh Tiên Hoàng là Cao Các và Cao Sơn

Cấp tỉnh 2004

4

Đền Trần

(Vì ban đầu chỉ có 1 bệ thờ lộ thiên, vào khoảng thế kỷ 15)

Xã Khánh Lợi

- Cống Thủy Thanh Long Phù Tang Đại Đế (thời Hậu Lê)

- Tiến sỹ Nguyễn Bật Luân

- Phối thờ: vua Đinh Tiên Hoàng; Đông Hải Đại Vương, Lực Lộ Đại Vương

Cấp tỉnh 2008

5

Đình làng Xuân Dương

Xã Khánh Cư

- Đương cảnh thành hoàng Đinh Điền

Cấp tỉnh 2008

6

Đền Nội

Thị trấn Yên Ninh

- Lê Đại Hành Hoàng Đế

- Thần Câu Mang

Cấp tỉnh 2007

7

Nhà thờ Thái úy Phạm Cự Lượng

Thị trấn Yên Ninh

- Thái úy Phạm Cự Lượng

- Ông tổ 2 chi: Phạm Mậu và Phạm Trọng

Cấp tỉnh 2010

  1. Di tích chưa xếp hạng

1

1

Đền Hành Phúc

Xã Khánh Phú

Thờ 2 tướng triều Đinh

 

 

 

HUYỆN YÊN MÔ

  1. Di tích đã xếp hạng

3

1

Chùa Tháp

Xã Khánh Thịnh

- Chùa thờ Phật

- Đền thờ Đinh Điền

- Miếu thờ thủy thần

Cấp Quốc gia 1994

2

Đền Thượng

Xã Yên Lâm

- Lê Đại Hành;

- Quốc sư Ngô Chân Lưu

- Đại Thắng Minh hoàng hậu;

- Thần hoàng làng Ngọc Lâm;

- Thượng tướng Trần Khát Trân.

Cấp tỉnh 2008

3

Đền Bồ Vi

Xã Khánh Thịnh

Thờ Đinh Điền

Cấp tỉnh 2013

  1. Di tích chưa xếp hạng

8

1

Đình Từ Đường

Xã Yên Thái

Thờ Lê Đại Hành hoàng đế

 

2

Đình Quảng Công

Xã Yên Thái

Thờ Lê Đại Hành hoàng đế

 

3

Chùa Phượng Ban và đền Tam Thánh

Xã Khánh Thịnh

Thờ Đinh Điền

 

4

Đình làng Yên Thịnh

Xã Khánh Dương

Nguyễn Bặc

 

5

Đình làng Tam Dương (Đình Vĩnh Bái)

Xã Khánh Dương

Đinh Điền

 

6

Đền Thượng Thắng Động

Xã Khánh Thượng

Thờ Tướng triều Đinh

 

7

Chùa Công Đồng

Xã Yên Đồng

-Công chúa Từ Huệ

-Tự phúc tĩnh thượng thư Tề tướng: Có công diệt giặc thời Tiền Lê

 

8

Đình làng Từ Đường

Xã Yên Thái

-Lê Đại Hành

-Chu Thị Ngọc Nương công chúa

 

 

HUYỆN NHO QUAN

  1. Di tích đã xếp hạng

2

1

Đình Mỹ Hạ

Xã Gia Thuỷ

Thờ cha mẹ vua Đinh Tiên Hoàng

Cấp Quốc gia 1998

2

Chùa Duy Khánh

Xã Thanh Lạc

- Thờ Phật

- Thờ Bản cảnh Thành hoàng

- Thờ Quý Minh Đại Vương

Cấp tỉnh 2005

  1. Di tích chưa xếp hạng

11

1

Đền Long Viên

Xã Gia Thủy

Tương truyền là thờ bà đỡ cho vua Đinh

 

2

Đình Ngọc Nhị

Xã Gia Thủy

Thờ Đinh Tiên Hoàng và Lý Thái Tổ

 

3

Đình Duối

Xã Gia Thủy

Thờ Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành

 

4

Đình Mai Xá

Xã Gia Thủy

Thờ Tướng triều Đinh

 

5

Đình làng Ngọc Ba

Xã Gia Thủy

Thờ Đinh Tiên Hoàng

 

6

Đền Làng Kho

Xã Phú Lộc

Thờ Tướng triều Đinh

 

7

Đình Bái

Xã Sơn Thành

Thờ Tứ trụ triều Đinh

 

8

Hang Chùa

Xã Sơn Lai

Thờ vua Đinh Tiên Hoàng

 

9

Đình Ngọc Mỹ

Xã Sơn Lai

Thờ vua Đinh Tiên Hoàng

 

10

Đình làng Xát

Xã Sơn Lai

Thờ vua Đinh Tiên Hoàng

 

11

Đền Đồi

Xã Quỳnh Lưu

Thờ vua Đinh Tiên Hoàng

 

2. Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý

          Các văn bản pháp quy quốc tế

Bảo tồn di sản văn hóa dân tộc trước đây là công việc thuộc phạm vi quốc gia, nhưng từ thế kỷ 60, nó đã trở thành vấn đề mang tính chất  quốc tế. Hơn nửa thế kỷ hoạt động, tổ chức UNESCO của Liên Hợp quốc đã tập trung vào lĩnh  vực bảo vệ di sản văn hóa dân tộc, triển khai nhiều cuộc vận động có qui mô toàn cầu. Trong đó việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa được đặc biệt chú trọng.

Vào thập niên 60 của thế kỷ XX trước sự xuống cấp, phá hủy của các di sản, trong đó có các di tích lịch sử văn hóa trên toàn thế giới, cộng đồng quốc tế nhận thấy rõ tính cấp thiết phải bảo vệ vốn di sản quý báu mà người xưa để lại. Từ đó, các văn bản quốc tế đã ra đời để bảo vệ các di tích lịch sử văn hóa.

Ngày 11/12/1962, tại Paris, UNESCO họp khóa thứ VII đã phê chuẩn Khuyến cáo về việc bảo vệ vẻ đẹp và tính chất cảnh quan thiên nhiên. Việc bảo vệ không chỉ giới hạn ở các khu vực tự nhiên mà còn bao gồm cả cảnh quan do con người tạo ra. Khuyến cáo còn đề cập đến những phương án giám sát những công việc có liên quan đến khu vực tồn tại của di tích, đồng thời nêu ra những chỉ dẫn cần phải thực hiện việc phục hồi những di tích, cảnh quan đã bị tổn thất và tùy theo khả năng mà phục hồi.

Đại hội quốc tế lần thứ 2 của các kiến trúc sư và các chuyên gia kỹ thuật về các di tích lịch sử diễn ra tại Viên, thủ đô nước Áo, từ ngày 25/5 đến ngày 31/5/1964, đã thông qua hiến chương Venice - luật quốc tế về bảo tồn và khôi phục các công trình, di tích lịch sử. Mục đích là để bảo vệ chúng không những còn lại các tác phẩm nghệ thuật mà còn lại cả các bằng chứng lịch sử.

Ngày 19/11/1968, Tổ chức giáo dục, khoa học, văn hóa của Liện hợp quốc (UNESCO), họp khóa thứ XV để phê chuẩn khuyến cáo về việc bảo vệ tài sản văn hóa do những hoạt động xã hội hoặc tư nhân gây ra. Khuyến cáo đã đưa ra các nguyên nhân trực tiếp, gián tiếp của con người, đồng thời đề ra những biện pháp nhằm đảm bảo tính chất của khu vực di tích. Theo đó thì những nước thành viên của UNESCO cần phải áp dụng mọi biện pháp để có thể bảo vệ tất cả các loại di sản văn hóa ở dạng nguyên gốc. Trong trường hợp vì những nguyên nhân kinh tế, xã hội mà phải di chuyển, từ bỏ hay phá hủy những đối tượng là tài sản văn hóa thì cần phải áp dụng mọi biện pháp để nghiên cứu tỉ mỉ và đo đạc chi tiết, lấy đó làm cơ sở khoa học, căn cứ chuẩn mực để có thể phục dựng lại khi có điều kiện và cần thiết.

Tại kỳ họp XVII của tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hợp quốc từ ngày 17/10 dến ngày 21/11/1972, đã thảo ra bản công ước quốc tế về bảo vệ di sản văn hóa và tự nhiên là trách nhiệm của mỗi quốc gia cũng như là của toàn thế giới. Mỗi quốc gia tham gia đều phải cố gắng hết sức cho mục đích trên bằng mọi nguồn lực sẵn có cũng như cả viện trợ quốc tế, hợp tác quốc tế cả về kinh tế, khoa học kĩ thuật, công nghệ hiện đại.

Tại Nairobi, ngày 26/10/1976, tổ chức UNESCO họp khóa thứ XIX thông qua Nghị quyết về trao đổi quốc tế các di sản văn hóa với lời nhắc nhở rằng “tài sản văn hóa là yếu tố cơ bản của nền văn minh và văn hóa của các dân tộc. Tài sản văn hóa là những hiện vật biểu thị hay chứng thực sự sáng tạo của loài người hay sự tiến hóa của thiên nhiên”.

Đứng trước sự xuống cấp, hủy hoại của các di tích trước điều kiện khí hậu không mấy thuận lợi đối với các di tích được làm bằng vật liệu có nguồn gốc hữu cơ, 45 nhà lãnh đạo các Hội đồng quốc tế và 25 đại biểu quốc gia đã họp tại Nara (Nhật Bản) và kí kết văn kiện Nara. Văn kiện có 13 điều khoản, trong đó từ điều 9 đến điều 13 đề cập đến vấn đề nguyên gốc của di tích. Tính nguyên gốc của di tích không chỉ biểu hiện đơn giản là nguyên gốc về vật liệu xây dựng mà còn được mở rộng ra đó là nguyên gốc về chức năng đến giá trị của di tích.

Nhận thức về giá trị của di sản văn hóa đối với sự phát triển xã hội cũng như vai trò của tổ chức UNESCO trong công cuộc bảo vệ và phát huy giá trị của di sản ấy vào cuộc sống, Việt Nam đã tham gia phê chuẩn năm 1978. Và từ đó đến nay Việt Nam luôn có những hoạt động tích cực để được UNESCO công nhận những di tích, danh lam thắng cảnh là di sản văn hóa của thế giới và có những sự giúp đỡ cả về vật chất, tinh thần để bảo vệ, gìn giữ và phát huy giá trị của di sản ấy phục vụ cuộc sống.

Đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý

Di tích lịch sử văn hóa là tài sản quý giá trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc, là những chứng cứ vật chất phản ánh sâu sắc bản sắc văn hóa, cội nguồn dân tộc. Đồng thời, nó cũng là một bộ phận quan trọng cấu thành môi trường sống của con người và các hoạt động văn hóa gắn liền với di tích. Mặt khác nó còn là nguồn tư liệu quý giá để con người hôm nay cũng như mai sau hiểu được những suy nghĩ, tình cảm của thế hệ cha ông ta trong quá khứ. Từ đó có những ứng xử văn hóa phù hợp với hiện tại và tương lai, không chỉ thế, đó còn là nguồn tư liệu sống như để khẳng định với nhân loại về lịch sử văn hóa dân tộc, quốc gia.

Vì vậy, việc bảo tồn và phát huy tác dụng của di tích ngày nay cũng cần thiết và trở nên có ý nghĩa trong quá trình phát triển xã hội. Và, đó không còn là vấn đề của riêng bất kỳ quốc gia nào mà là trách nhiệm của toàn xã hội loài người, của tất cả các quốc gia.

Căn cứ vào thực trạng của các di tích (nhất là các di tích xếp hạng cấp tỉnh) xin đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích góp phần vào sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.

Kiên trì công tác tuyên truyền, giáo dục về di sản văn hóa và Luật Di sản văn hóa tới đông đảo quần chúng nhân dân. Chú trọng tới đối tượng thanh thiếu niên, triển khai có hiệu quả khẩu hiệu “Di sản nằm trong tay thế hệ trẻ” của UNESCO. ICOMOS nhấn mạnh tới “một chương trình thông tin đại cương” cho mọi người, bắt đầu từ trẻ em ở tuổi đến trường.

Sớm hoàn chỉnh hệ thống chính sách về di tích, nhất là những chính sách về xã hội hóa hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di tích. Đặc biệt là những quy định của các Luật Thuế cho phép các doanh nghiệp, cá nhân được giảm một phần thuế kinh doanh, thuế thu nhập… nếu doanh nghiệp hoặc cá nhân đó có những đóng góp trực tiếp cho việc tu bổ di tích, mua di vật, cổ vật hiến tặng bảo tàng nhà nước, tài trợ cho những chương trình nghiên cứu về di tích.v.v. Thông qua đó nâng cao vai trò quản lý và định hướng của Nhà nước để sử dụng có hiệu quả hơn nữa sự đóng góp của nhân dân cho bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá.

Giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển bền vững. Với quan điểm di tích là cái đang có, cái không thể thay thế, nên vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích cộng đồng, lợi ích của các thế hệ hôm nay và mai sau thì cái mới, cái xây dựng sau cần phải hết sức tôn trọng di sản gốc. Từ thực tiễn và những bài học có tính phổ quát trên phạm vi toàn thế giới, UNESCO, ICOMOS đã ban hành nhiều công ước, hiến chương trong đó có nêu những nguyên tắc cơ bản để giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển như Hiến chương về bảo vệ thành phố và đô thị lịch sử: “...bảo vệ các thành phố và các đô thị lịch sử khác phải là một bộ phận hữu cơ của hệ thống cố kết các chính sách phát triển kinh tế và xã hội...”; “Những chức năng mới và các mạng kết cấu hạ tầng do đời sống đương đại đòi hỏi phải thích hợp với đặc trưng của thành phố lịch sử.”; bảo vệ di tích không có nghĩa bảo vệ một cách bất di bất dịch, Hiến chương cũng nêu rõ: “Việc đưa các yếu tố đương đại vào mà hài hòa được với tổng thể khung cảnh là có thể chấp nhận, bởi vì các yếu tố mới đó có thể góp phần làm cho khu vực thêm phong phú.”.

Gắn việc bảo vệ di tích với phát triển du lịch. Ngày nay, du lịch được coi là một trong những phương tiện hàng đầu để trao đổi văn hóa, du lịch là động lực tích cực cho việc bảo vệ di sản văn hóa, và di sản thiên nhiên và đã thành một phức hợp đóng một vai trò chủ yếu trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục, sinh thái và thẩm mỹ... đó là mối tương tác giữa du lịch và di sản văn hóa nêu tại Công ước quốc tế về du lịch văn hóa đã được ICOMOS thông qua tại kỳ họp Đại Hội Đồng lần thứ 12 ở Mexico năm 1999. Một số mục tiêu đáng chú ý của Công ước: “Tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích ngành kinh doanh du lịch đẩy mạnh và quản lý du lịch theo hướng tôn trọng và phát huy di sản và các văn hóa đang tồn tại...”, “Tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích đối thoại giữa những người chịu trách nhiệm về di sản và những người kinh doanh du lịch nhằm làm họ hiểu rõ hơn tầm quan trọng và tính chất mỏng manh dễ hỏng của các tổng thể di sản, các sưu tập, các văn hóa đang tồn tại, kể cả sự cần thiết phải đảm bảo một tương lai bền vững cho những di sản đó”. Công ước đã đưa ra 6 nguyên tắc về du lịch văn hóa, 6 nguyên tắc này hoàn toàn có thể và cần được áp dụng trong điều kiện Việt Nam

Tổng hợp tin bài: Nguyễn Vân

BQL Quần thể danh thắng Tràng An

  • Từ khóa :
Tin mới