Những dòng sông được nhắc tên ở trên nằm phía ngoài ôm ấp lấy di sản Tràng An, bản thân mỗi dòng sông này đều có hệ thống đê riêng, có kết nối với những dòng sông trong lòng di sản như sông Sào Khê; sông Chanh; sông Ngô Đồng; sông Đền Vối; sông Hệ… thông qua các cửa cống, chi phối khá mạnh đến mặt gương nước trong lòng di sản. Vấn đề bảo tồn và kết nối dòng chảy, cùng những dấu tích văn hoá vật thể và phi vật thể, điều hoà mực nước với những dòng sông trong lòng di sản cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, xây dựng quy hoạch tổng thể và chi tiết sẽ tạo dựng bản sắc, nguồn sinh dưỡng cho đô thị di sản trong tương lai.
Xin được điểm lại một số dòng sông quanh vùng di sản làm ví dụ cho việc bảo tồn, khơi thông dòng nước, bảo tồn dòng chảy di sản văn hoá.
Dòng Hoàng Long uốn khúc giữa khoảng đồng đất có bề rộng trên dưới 10km được giới hạn bởi hai khối núi đá vôi: Hoa Lư (bên hữu) và Vân Long (bên tả), được cấp nước từ vùng núi rừng quốc gia Cúc Phương qua sông Lạng, từ dòng sông Bôi đổ về từ Hòa Bình, từ vùng núi Hoa Lư thông qua dòng Sào Khê. Trong bối cảnh hàng chục nghìn năm về trước khi mực nước biển thấp hơn hàng chục mét so với mực nước biển hiện tại thì dòng Hoàng Long theo dòng sông Đáy chảy dài hàng trăm ki lô mét vươn về phía biển Đông, và khi biển dâng (tiến) có mực nước cao hơn mực nước biển hiện tại khoảng 4 mét ứng với giai đoạn biển tiến cách ngày nay khoảng 4.000 đến 7.000 năm thì dòng Hoàng Long ẩn mình trong lòng vịnh biển, vịnh biển này được giới hạn bởi các dãy núi đá vôi vòng từ Gia Viễn lên Nho Quan, qua Tam Điệp và vùng núi Hoa Lư - Di sản Tràng An như một quần đảo trong vịnh biển cổ ấy. Vùng núi đồi ven vịnh biển cổ này đã xuất lộ nhiều di tích khảo cổ học thời Tiền sử thuộc nền văn hóa Hòa Bình và Đa Bút và trước đó có những di tích khảo cổ niên đại tới 30.000 năm cách ngày nay, qua các di vật là đồ trang sức được chế tác từ nhuyễn thể biển cho thấy cư dân tiền sử ở đây đã có những mối giao lưu với những nhóm cư dân biển ở rất xa. Trên bậc thềm phù sa cổ và những bãi đất ven sông có dấu tích của nền Văn hóa Đông Sơn (Núi Sưa, Sơn Lai; Núi Soi, Gia Hòa) hay những công trình kiến trúc thời Bắc thuộc như hệ thống mộ xây cuốn vòm phát hiện trên địa bàn các xã Quỳnh Lưu; Gia Thủy; Gia Tường, huyện Nho Quan, xã Liên Sơn, huyện Gia Viễn và hàng loạt những di tích liên quan tới không gian của cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đầu Công nguyên; cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng- Bố Cái Đại Vương ở thế kỷ thứ 8, ghi dấu dặm dài lịch sử dân tộc.
Theo dòng Hoàng Long xưa bắt đầu từ ngã ba sông Kênh Gà nơi hợp lưu của dòng sông Bôi, sông Lạng suôi về phía biển qua làng Lạc Khoái (gắn với truyền thuyết vua Đinh Tiên Hoàng cùng Thái Hậu Dương Vân Nga vào đêm trăng thanh gió mát rời thành Hoa Lư, ngược dòng Hoàng Long đến đây thấy nước sông trong cùng rủ nhau suống tắm, thấy cảnh đẹp sinh tình nên gọi nơi đây là Lạc Khoái), trong làng có núi Dương (có nhà nghiên cứu đưa ra giả thiết pháp danh Dương Không Lộ-Nguyễn Minh Không xuất phát từ đây), suôi dòng một chút nhìn phía bên tả có làng Đại Hữu, quê hương vua Đinh, gắn liền các địa danh như gò Bồ Đề (tương truyền là nền nhà cũ của vua Đinh); núi Kỳ Lân (nơi Đinh Công Trứ đã táng hài cốt của cha mình, trở thành lăng phát tích của dòng họ Đinh); động Đại Hữu là nơi bà Đàm Thị sinh ra Đinh Bộ Lĩnh; đường Tiết Yết, cầu Đàm (gắn liền với tích truyện Bộ Lĩnh bị người chú cầm gươm đuổi chém…); Đào Áo là khu đất rộng để Đinh Bộ Lĩnh dựng cờ lau tập trận thuở ấu thơ… kế đó là làng Vũ Ninh quê hương của Định Quốc công Nguyễn Bặc, cận kề là Đàm Xá –Điềm Giang hay gọi một cách dân gian là làng Điềm (theo các cụ trong làng thì ở thời vua Lê, chúa Trịnh từ Đàm có trùng tên với một vị vua chúa nào đó nên đổi thành Điềm). Đàm Xá, quê hương Thiền sư Nguyễn Minh Không một nhân vật sống theo nghĩa sinh học vắt ngang qua hai thế kỷ 11 và 12 (1065-1144), nhưng về mặt văn hóa và tín ngưỡng, huyền tích, huyền thoại thì còn mãi tồn tại với thời gian. Đối diện với Đàm Xá phía bên hữu dòng Hoàng Long là Cố đô Hoa Lư. Ở thế kỷ 10 vùng đất Hoa Lư là vùng đất có tính chất thung lũng, có những thung lũng kín và thung lũng mở, có những đầm nước, có những cồn đất cát ven sông, trước núi được bồi đắp không đồng đều trong quá trình hình thành châu thổ sông Hồng, sau đợt biển tiến giai đoạn 2.500 đến 1.500 năm cách ngày nay, mà nhà Đinh đã khéo quy hoạch, đắp thành liên kết những thung lũng ấy bằng những tuyến tường thành nhân tạo khép nối những dãy núi, núi lẻ để có một kinh thành mang dáng dấp một thung lũng lớn được bao bọc bởi núi và tường thành nhân tạo, đậm nét yếu tố quân thành bên bờ hữu sông Hoàng Long. Và kinh thành này cũng mang đậm một yếu tố kinh thành ven biển (một tầm giáo là phóng tới biển Đông), khi đó sóng biển còn vỗ về dưới chân núi Non Nước mà cho tới thời Trần còn có cửa biển Đại Ác-Đại An cận kề với núi này, hay thời điểm trước đó còn có một cửa biển “Gián Khẩu” liền kề. Như vậy Kinh thành hoa Lư bên hữu của con sông Hoàng Long lúc đó có vị trí như điểm giao thủy giữa nước ngọt của sông và nước mặn của biển. Con người đã sớm biết lợi thế của điểm giao thủy để tụ cư khai thác một nguồn thủy sản phong phú (có cả hải sản nước mặn lẫn thủy sản nước ngọt) vừa là điểm ngược lên thượng nguồn hay suôi ra biển cả đều rất dễ dàng thuận tiện.
Chúng ta chưa có điều kiện để làm một cuộc khai quật tại làng xem những lát cắt các tầng văn hóa của các làng ven sông Hoàng Long, xem những người đến tụ cư ban đầu ở thời điểm nào, nhưng những thông tin hiện tại kể trên cũng tạm cho chúng ta khẳng định những làng này hình thành trước thế kỷ 10, trong không gian của vùng giao thủy trên sông Hoàng Long, cùng là trong không gian căn cứ ban đầu của Đinh Bộ Lĩnh và sau này là không gian mở của Kinh đô Hoa Lư. Có dấu ấn của việc tiến từ rừng núi suống khai phá vùng đất trước núi, ven sông trong quá trình hình thành tam giác châu thổ Bắc Bộ. Phải chăng hình hài ban đầu của làng chỉ là một cồn đất ven sông, nằm bên con đường sông chuyên chở văn hóa, tôn giáo (trong không gian này chúng ta đã thấy hiện tượng thờ thần Độc Cước ở chùa Cầu Đài, Gia lập, Gia Viễn; hiện tượng thờ thạch quang Phật ở chùa Mơ, Nho Quan) và những sản vật “măng le gửi xuống, cá chuồn gửi lên” giữa vùng rừng núi với vùng đồng bằng mới hình thành, với vùng biển cả để đi xa hơn nữa thông qua cửa khẩu biển. Cũng có lý khi giải thích địa danh Gián Khẩu, gần đó ngày nay vốn trước đó có tên là Hán Khẩu, thời thuộc Hán. Và đương nhiên ở thế kỷ 10 làng Đàm Xá bên tả hay kinh đô Hoa Lư bên hữu dòng Hoàng Long cùng nằm chung trong không gian giao thoa giữa nước mặn và nước ngọt; giữa vùng núi và vùng đồng bằng; vùng giao thoa văn hóa giữa sông Hồng và sông Mã, không gian giao thoa giữa xã hội Việt và Mường trong một giai đoạn “đánh dấu sự quá độ từ Mường sang Việt”. Để đến đời Lý khi nơi đây là phủ Trường Yên là đất thang bộc của Tô Hiến Thành, sang thời Trần là vùng đất phong ấp của mẹ con Trần Quốc Tảng…Nơi có giao thương buôn bán phát triển (còn tồn tại những ngôi đình lớn Trùng Hạ; Trùng Thượng; Vân Thị…) ghi dấu ấn của một vùng có giao thương kinh tế phát triển.
Trong cuộc chiến tranh Nam Bắc triều (TK 16) lưu vực sông Hoàng Long còn là căn cứ thủy quân của Mỹ quận công Bùi Văn Khuê, phu quân của Liệt nữ trời Nam Nguyễn Thị Niên nay còn hiện diện ngôi đền Vực Vông linh thiêng ở Chi Phong Hạ, nhà thờ Bùi Văn Khuê ở Chi Phong Thượng.
Về làng Đàm Xá hôm nay còn được các cụ chỉ cho Gồ rau (gò đất phía sau đền, cách đền khoảng 300m) tương truyền là nơi chôn rau của Thánh Nguyễn; còn được xem bia đá dựng ngay bên bến sông- chợ Điềm (mọi người đều tâm niệm chợ này do Thánh Nguyễn mở để giúp dạy dân mua bán cá) trên bia có ghi việc cắt đất lấy hoa lộc để phụng thờ Thánh Tổ. Và mọi người ở đây kiêng ngặt việc đặt tên con cháu là Thành (tên này trùng với tên Thánh Nguyễn thuở thiếu thời Nguyễn Trí Thành). Nơi đây còn lưu truyền nghi lễ rước nước trong lễ hội (rước nước từ bến sông Hoàng Long, tại điểm “Đá Bia” bia đá chợ Điềm) về đền để thờ, thờ nước, thờ cái thứ giúp cho mọi vật sinh sôi nảy nở, cua cá đầy sông, mùa màng tươi tốt và đặc biệt là thứ giúp cho họ di chuyển trên nó, suôi ngược trên sông một cách thuận buồm suôi gió. Cũng như trong lễ rước nước ở Lễ hội Hoa Lư bên bến Hoàng Long theo tâm thức thờ nước ngoài ra còn theo tâm niệm “Núi sừng sững thâm nghiêm như CHA, Nước dịu ngọt hiền hòa như MẸ”, có nghi thức rước Mẹ về với Cha, đoàn tụ sinh sôi nảy nở.
Làng quê bên dòng Hoàng Long mang đậm yếu tố sông nước, đã từng là điểm giao thủy (ở thời điểm trước sau thế kỷ 10) trên sông Hoàng Long có tính “động” cao, là vùng mở, vùng giao thương ven biển của Kinh thành Hoa Lư xưa, có tính giao lưu mạnh. Giao lưu với vùng rừng núi phía tây bắc thông qua sông Hoàng Long, ngược sông Bôi, sông Lạng. Giao lưu với những miền quê trù phú sứ Đoài, cạnh phía tây nam tam giác châu thổ Bắc Bộ thông qua sông Đáy để tới những danh lam (chùa Hương; chùa Thầy). Từ dòng Hoàng Long ra trung tâm đồng bằng châu thổ Bắc Bộ đến các vùng Keo; Giao trên sông Hồng. Dòng chảy văn hóa Hoàng Long tính giao lưu mạnh, có tính chất văn hóa của nơi đã từng là vùng Keo; Giao chứ không khép kín như những thung lũng hay trên bậc thềm phù sa cổ gần núi xa sông. Không gian văn hóa lưu vực sông Hoàng Long mang nặng đặc trưng cá tính khôn ngoan, tinh tế, ôn hòa của dân châu thổ, pha lẫn ít nhiều với cá tính chất phác, can trường của dân miền núi. Đây là vùng đất “thang mộc” của dòng họ Đinh – vua Đinh, dù ngắn ngủi nhưng cũng tạo dựng được dấu ấn cho riêng mình trong dòng chảy của lịch sử dân tộc. Đinh Tiên Hoàng Đế, là vị quân chủ đầu tiên, mở đầu cho giai đoạn tự chủ của dân tộc Việt Nam, sau ngót ngàn năm Bắc thuộc. Điều này nó gắn liền với câu “Đại Hữu sinh vương” mà dân gian đã thường nhắc tới. Đây là vùng đất “sinh thần” gắn liền với thiền sư Nguyễn Minh Không, sau được dân gian tôn làm Thánh. Thân phận của vị thiền sư ấy đã gắn liền với vận mệnh của một triều đại, của bậc quân vương, lập công trạng để trở thành Quốc sư vương triều Lý. Ngôi chùa nơi ông tu hành (Viên Quang tự) sau này trở thành đền thờ ông. Đây là vùng đất “kinh sư” – trung tâm quyền lực, chính trị của nhà nước quân chủ Đại Cồ Việt. Kinh sư này, gắn liền với hai triều đại Đinh và Tiền Lê, tương đương với giai đoạn lịch sử từ 968 đến 1009. Mặc dù mang vai trò là kinh sư của Đại Cồ Việt trong một thời gian ngắn, nhưng cũng đủ tạo dựng những đặc trưng văn hóa riêng có của vùng đất Hoa Lư. Vùng đất này gắn liền với những con người – nhân vật lịch sử, nhưng lại phủ lên nhiều câu truyện có tính chất truyền thuyết, huyền hoặc. Những dòng “huyền sử” ấy đời nào cũng có, nhưng nó trở thành hiện tượng đậm đặc ở vùng/không gian dòng Hoàng Long này. Từ việc Đinh Bộ Lĩnh được rồng đưa qua sông, thoát khỏi lưỡi gươm của người chú. Cho đến thiền sư Minh Không có nhiều “thuật phép” lạ, gánh núi lấp sông, be bờ đơm đó, cưỡi nón qua sông, niệm chú trừ yêu, dùng kim trong vạc dầu sôi để chữa người hóa hổ. Không gian lưu vực sông Hoàng Long, là vùng đất “thiêng”.
Dòng Sào Khê chảy trong lòng di sản, làm cầu nối giữa hai sông Hoàng Long và Vân Sàng ăm ắp huyền tích, huyền thoại. Dấu ấn của một quá trình sinh tồn, lập làng, mở đất, mở nước, gồm những di tích khảo cổ học thời tiền sử ở hang động, mái đá, hệ thống kiến trúc trị sở, kinh thành Hoa Lư xưa; những công trình kiến trúc đền; chùa; phủ; đường; cầu, cống; giếng nước, phản ánh cái không gian kinh thành, làng xã xưa …đặc biệt ở nơi đây còn có những ngôi nhà cổ soi bóng bên dòng Sào Khê.
Dòng Sào Khê có tổng chiều dài khiêm tốn khoảng 10km nhưng mang trong mình bề dầy dấu tích lịch sử địa chất, nhân loại và dân tộc. Truyền và nhận nước từ sông Hoàng Long, nơi không gian thiêng thực hiện nghi lễ rước nước trong Lễ hội Hoa Lư, chảy qua hai xã Ninh Xuân; Ninh Thắng rồi nhập với dòng sông Vân quanh làng Cổ Loan, xã Ninh Tiến, thành phố Ninh Bình. Dòng Sào Khê chảy trong lòng kinh thành Hoa Lư xưa, hình thành các cổng thành - cửa nước xuyên những tuyến tường thành Cầu Dền; Núi Chẽ; Cầu Đông; cầu Hội, nay còn bóng dáng các cây cầu khi có tuyến đường bộ vượt qua như cầu Dền; cầu Chẽ; cầu Đông; cầu Hội. Dấu tích lịch sử địa chất, địa mạo bên dòng Sào Khê là những cảnh quan tháp đá vôi kỳ diệu, lúc ẩn lúc hiện qua nắng sớm, mây chiều, qua con nước đầy vơi, nơi ở ẩn của nhiều trí sỹ trong đó có cụ Phạm Văn Nghị gắn với các địa danh Đá Bàn; Ngô Ngã, Ông Trạng; Hòm Sách. Dòng chảy Sào Khê nối thông các thung lũng, vụng biển xưa (gắn với địa danh các áng: Áng Xuân; Áng Nội; Áng Ngoại; Áng Nồi; Áng Lấm; các vụng: Vụng Quao; Vụng Chão…), chảy qua các vùng còn lưu giữ những di tích, truyền thuyết liên quan tới hành cung Vũ Lâm thời Trần, mà mới đây qua thăm dò, thám sát khảo cổ học đã tìm được bến thuyền xưa bên dòng Sào Khê trong không gian chùa Khả Lương (xã Ninh Thắng).
Chúng ta chưa có điều kiện để làm một cuộc khai quật tại những làng ven sông Sào Khê xem những lát cắt các tầng văn hóa của các làng ven sông này, xem những người đến tụ cư ban đầu ở thời điểm nào, nhưng những thông tin hiện tại kể trên cũng tạm cho chúng ta khẳng định những làng này hình thành trước thế kỷ 10, trong không gian của vùng giao thủy. Hiện còn dấu ấn của việc con người thời Tiền sử ở nơi đây thích ứng với những biến đổi của môi trường từ khô lạnh sang nóng ẩm, từ môi trường lục địa sang môi trường hải đảo và ngược lại, dấu ấn của việc con người tiến từ rừng núi cao suống khai phá vùng đất trước núi, ven sông trong quá trình hình thành tam giác châu thổ Bắc Bộ, qua các di tích khảo cổ học thời đại, đồ đá, kim khí đến văn hoá Đông Sơn …đã phát hiện là minh chứng hết sức sinh động. Và đương nhiên ở thế kỷ 10 những làng ven dòng Sào Khê cùng nằm chung trong không gian giao thoa giữa nước mặn và nước ngọt; giữa vùng núi và vùng đồng bằng. Và dưới triều Trần (tk 13-14) nơi đây là cơ sở căn cứ để xây dựng nên hành cung Vũ Lâm và trước đó là không gian khởi đầu cho việc hình thành thiền phái Phật giáo Trúc Lâm mang đậm yếu tố văn hoá Việt. Trong giai đoạn Nam Bắc triều (TK 16) vùng đất ven dòng Sào Khê ghi dấu nhiều dòng họ về đây lập nghiệp và có sự đổi tên như họ Mạc sau đổi sang họ Nguyễn (họ Nguyễn gốc Mạc), họ Mạc đổi sang họ Phạm (họ Phạm gốc Mạc); họ Phạm (dòng dõi nho tướng Phạm Cương Nghị) đổi sang họ Nguyễn (họ Nguyễn gốc Phạm); họ Ngô (dòng dõi quận công Ngô Đình Nga) đổi sang họ Dương (họ Dương gốc Ngô, sinh Dương tử Ngô); ….Và cũng trong thời điểm này họ Giang vốn là con cháu cụ Hàn Giang Hầu có gốc họ Nguyễn (con cả cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm) ở sứ Đông (Hải Phòng) về đất Trường Yên. Họ Lưu về lập nghiệp ở xã Ninh Xuân….
Chúng ta có hàng trăm những di sản là nhà có lối kiến trúc truyền thống, gồm hàng chục nhà thờ các dòng họ có tuổi đời tới 300 năm, những ngôi nhà có kết cấu kiến trúc gỗ có niên đại trên dưới 100 năm hiện là nhà ở của người dân địa phương qua đó phản ánh quá trình lập làng, mở đất, mở nước, đánh dấu mốc lịch sử văn hóa truyền thống của các dòng họ, cùng hun đúc nên truyền thống văn hóa dân tộc. Những ngôi nhà có lối kiến trúc truyền thống được hình thành nên trong quá trình lập làng, sự tụ cư của các dòng họ ven dòng Sào Khê, trong không gian cảnh quan thiên nhiên đẹp, trong không gian đầy ắp những sự kiện lịch sử, trong không gian chắt lọc những giá trị văn hoá phi vật thể là những lễ hội; ẩm thực; phong tục tập quán…phong phú, đa dạng.
Việc bảo tồn những ngôi nhà cổ, từ việc gìn giữ những vật liệu đá, gạch, gỗ, ngói đất nung, nghề nề, nghề mộc…. cách thức làm nên hình hài, giáng vóc của ngôi nhà, gắn với những đồ dùng trong nhà, nếp sống sinh hoạt, những câu truyện liên quan là cần thiết, tuy nhiên cũng cần hết sức linh hoạt để chủ nhân có thể sinh hoạt thoải mái, tiện nghi thì cần có những cải biến hợp lý nhưng không làm mất đi dáng vóc, linh hồn của ngôi nhà truyền thống.
Việc bảo tồn những ngôi nhà cổ cần bảo tồn không gian quanh chúng, từ tường rào đến cầu ao, ao xóm, ao làng (được hình thành khi đào ao vượt thổ làm nhà, làm đường.), lối ra cổng, ra đường liên kết với nhà hàng xóm, đường trong làng, bến nước, … gắn với những công trình tín ngưỡng tôn giáo (đình, đền, chùa, miếu, phủ…).
Một đặc trưng những ngôi nhà cổ bên dòng Sào Khê còn tồn tại theo cụm, gắn với không gian của ao dùng chung (cùng trong họ) có mối liên hệ anh em, cần được bảo tồn theo cụm, mở rộng hơn là cần được bảo tồn không gian xóm làng.
Vai trò của dòng Đáy và Vân
Trong cái quy luật chung của dòng chảy tự nhiên và văn hóa, thành phố Ninh Bình cũng như bao đô thị khác đều nằm phía bên hữu (bên phải) của các con sông (theo hướng từ thượng nguồn ra biển cả). Bên hữu của dòng sông Đáy thơ mộng và chở nặng trong lòng nhiều dòng văn hóa có thành phố trẻ Ninh Bình. Thành phố trẻ theo thời điểm có tên gọi là thành phố (năm 2007) nhưng lại có bề dầy về lịch sử địa chất, địa mạo và quá trình tụ cư, trên nền cảnh địa chất có những đặc thù riêng, đã và đang tạo cho thành phố Ninh Bình có một sắc thái văn minh riêng biệt.
Ninh Bình còn hiện diện nhiều dãy núi chạy theo hướng tây bắc - đông nam như các dãy núi đá vôi trải dài trên các huyện Nho Quan; Hoa Lư; Gia Viễn; Yên Mô và thành phố Tam Điệp. Đến phần địa phận của thành phố Ninh Bình những khối đá vôi này như đã bị chìm xuống, bị xâm thực gần hết chỉ còn lại một số dãy núi phần rìa của Quần thể danh thắng Tràng An, trên địa bàn hai xã Ninh Tiến và Ninh Nhất cùng với những tháp cart đơn lẻ (núi độc) như núi Sệu; núi Kỳ Lân; núi Non Nước (núi Thúy); núi Cánh Diều (núi Ngọc Mỹ Nhân).
Thời điểm hình thành những dãy đá vôi kể trên dao động trong khoảng từ 250 triệu đến 300 triệu năm cách ngày nay đã chịu nhiều sự nâng lên hạ xuống, uốn nếp và sự xâm thực, bào mòn của nước đặc biệt hơn bị nước biển xâm thực nhiều lần (qua bao cuộc bể dâu) rồi được bồi lắng bởi phù sa biển, phù sa sông đã tạo cho thành phố Ninh Bình có một địa hình đa dạng, phong phú. Qua những tài liệu khảo sát địa chất công trình lớn như xây dựng cầu Non Nước; xây dựng nhà máy Nhiệt điện Ninh Bình chúng ta biết thêm dưới lòng thành phố của chúng ta còn có nhiều tầng những hang động ngầm.
Theo các nhà địa chất, sau 4 nghìn năm châu thổ sông Hồng, trong đó có Tràng An là thời kỳ biển thoái (Doãn Đình Lâm, W. E. Boud, 2001) song vẫn có một đợt biển lấn trở lại với qui mô nhỏ (Fontaine et Delibrias 2011)
Trong khu vực Ninh Bình, các nhà địa chất ghi nhận vào giai đoạn 2.500 - 1.500 năm, biển tiến dần vào Tràng An. Bằng chứng là trầm tích nguồn gốc sông - biển và trầm tích sông biển - đầm lầy, tương ứng với ngấn nước ở độ cao 2m quan sát được ở Núi Dục Thúy, Tam Cốc - Bích Động, đền Thái Vi (Ninh Bình). Lần biển tiến này làm ngập một số thung lũng thấp Tràng An, phủ tràn vào khu vực Đồng Tâm - Sơn Hà ở phía tây Núi Tướng (Nguyễn Đại Trung, nnk 2012:15), còn ở phía đông, các doi cát biển theo hướng vòng cung đông bắc-tây nam đã hình thành, nằm cách Tràng An 2km - 5km, nay là thành phố Ninh Bình (Doãn Đình Lâm 2008).
Trên tầng địa chất đá vôi là trầm tích Pleistocen và Holocen…cho đến lớp bề mặt của thành phố Ninh Bình nơi thì được bồi đắp đầy đặn gồ lên thành cồn (cồn cát ven núi Sệu, phường Ninh Khánh; cồn cát phía bắc Đền làng Phương Đình xã Ninh Sơn), nơi thì thiệt thòi nay là những ô trũng đây là sản phẩm của những khúc quanh đổi dòng của sông Đáy; sông Vân (hồ Máy Xay; hồ Biển Bạch; hồ Kỳ Lân; hồ Thủy sản…) nơi thì thẳng cánh cò bay ăm ắp phù sa sông mầu mỡ (đó là những xóm làng, đồng ruộng hai bên bờ sông Vân).
Trên cơ sở lịch sử địa chất lâu dài, đa dạng về địa hình, địa mạo là điểm giao thoa giữa các luồng di cư của động vật, thực vật theo hướng lục địa và biển cũng như giữa các vịnh biển theo hướng bắc - nam đã làm cho thành phố Ninh Bình có một hệ sinh thái hết sức đa dạng. Đây cũng là cơ sở cho sự xuất hiện sớm của loài người trên đất thành phố Ninh Bình.
Hiện nay chúng ta chưa có nhiều tư liệu về sự tụ cư của người tiền sử trên địa bàn thành phố Ninh Bình giai đoạn trước thế Pleistocene (10.000 năm về trước), chúng ta mới phát hiện một di tích còn bảo tồn tương đối nguyên vẹn ở Núi Sệu, phường Ninh Khánh và một số điểm có di tích cổ sinh trên lớp ngấn sóng biển ở núi Kỳ Lân.
Trước hết phải kể đến di tích khảo cổ núi Sệu: thuộc phường Ninh Khánh, thành phố Ninh Bình. Trên khu đất cát (đất làm mầu) cao 2m so với mặt ruộng lúa nước quanh đó, rộng khoảng 10.000m2, được bao quây ba hướng, bắc, tây, nam bởi núi Sệu và một số núi nhỏ khác. Tại đây đã phát hiện tầng văn hóa khảo cổ dầy trên 1m ken dày vỏ nhuyễn thể là ốc núi; ngao dầu; ốc nhảy; xương động vật cùng nhiều mảnh gốm thô trang trí văn thừng, văn khắc vạch, da gốm đỏ, xương gốm mầu đen có pha lẫn nhiều sạn sỏi cùng vỏ nhuyễn thể giã vụn, ngoài ra tại đây còn phát hiện nhiều rìu đá; vật liệu kiến trúc thời Đinh-Tiền Lê ở thế kỷ 10. Qua nghiên cứu bước đầu có thể cho chúng ta nhận biết con người thời tiền sử ở vào giai đoạn thời đại đồ đá mới, cách ngày nay khoảng 10.000 năm đã từng cư trú ở đây, họ khai thác nguồn thực phẩm chủ yếu là săn bắt động vật nhỏ, thu lượm ốc núi và nhuyễn thể nước ngọt, họ sống trên thềm trầm tích Pleistocene. Sau giai đoạn này có một đợt biển tiến ở vào khoảng 5.000 đến 7.000 năm cách ngày nay (lúc đó mực nước biển cao hơn mực nước biển hiện tại khoảng 4m), thềm trầm tích Pleistocene bị xâm thực mạnh, không gian sinh tồn của người tiền sử lúc này bị thu hẹp dồn về vùng chân núi cao. Cho đến giai đoạn từ 3.000 đến 4.000 năm cách ngày nay, biển rút, khu vực này được bồi đắp một lớp cát đen (cồn cát) như chúng ta còn thấy ngày nay. Người Tiền sử lại trở lại cồn cát này cư trú, khai thác nguồn thức ăn từ biển là chủ yếu. Cùng với những địa điểm đã phát hiện dấu ấn cư dân thời tiền sử ở giai đoan cách ngày nay từ 3.000 đến 4.000 năm cách ngày nay ở những địa điểm khác như: Núi Liên Sơn, xã Ninh Mỹ; Núi Chùa và núi Duông, xã Ninh Giang; núi Con, xã Trường Yên (huyện Hoa Lư); di tích khảo cổ Mán Bạc, xã Yên Thành (huyện Yên Mô)… cho chúng ta viết lên một câu truyện lý thú về qúa trình lập làng, khai phá vùng đất mới ven biển của người Tiền sử.
Núi Kỳ Lân, phường Tân Thành, nơi còn lưu dấu những gì đặc trưng nhất của những đợt biển tiến, ngấn sóng biển còn rất rõ nét, cho chúng ta nhận biết ở đây có nhiều giai đoạn bị biển xâm thực. Đặc biệt hơn nữa trên những ngấn sóng biển ở đây còn xuất lộ lớp trầm tích có chứa xương động vật, vỏ nhuyễn thể biển, đây là cứ liệu hết sức quan trọng cho chúng ta xác định tuổi, quá trình biển tiến lùi. Trong quá trình nạo vét quanh núi này có xuất lộ những đốt xương của cá voi rất lớn.
Núi Non Nước, ngoài ngấn sóng biển, nơi có di sản trầm tích cổ sinh giúp xác định niên đại cho những lần biển tiến lùi và nghiên cứu về cổ sinh, nơi đây còn là một kho di sản thơ ca, lịch sử-văn hóa của dân tộc. Trên vách núi đá Dục Thúy hiện có tới 4 văn bia thời Trần. Đó là Dục Thúy sơn Linh Tế tháp kí, do Trương Hán Siêu soạn, khắc năm 1343; Thái Thượng hoàng đế Thánh chỉ, là Thánh chỉ vua Trần, khắc năm 1349; bài thơ Đăng Dục Thúy sơn lưu đề của Phạm Sư Mạnh hộ giá vua đi đánh Chiêm Thành vào năm 1358, có qua đây đề thơ; và văn bia cúng ruộng khắc trên một tảng đá ở ngay chân bậc lên núi (văn bia này bị vỡ một mảnh trán bia, nhưng văn bản vẫn còn tương đối đầy đủ nội dung với các chữ húy tiêu biểu thời Trần như chữ Nguyệt viết bớt nét). Ngoài ra ở đây hiện còn trên dưới 30 văn bản khác khắc trên vách núi có niên đại từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, là những sử liệu vô cùng quý giá về danh tích này. (Đinh Khắc Thuân: Văn bia Ninh Binh và di tích thời Đinh-Tiền Lê, kỷ yếu hội thảo, 2011)
Bên cạnh núi Non Nước chúng ta còn có dấu tích của một tòa thành được xây dựng dưới thời Nguyễn.
Những trầm tích cổ sinh, tầng văn hóa khảo cổ lưu lại dấu ấn cư dân Tiền sử xuất lộ và còn được bảo tồn trên những khối núi đá vôi của thành phố Ninh Bình hay trên thềm trầm tích (cồn cát) ven núi là những tư liệu hết sức quan trọng cho chúng ta phục dựng lại bức tranh về cuộc sống, quá trình tụ cư hay sự thích ứng với những biến đổi về môi trường của người Tiền sử trong một khoảng thời gian dài từ 10.000 năm đến thời kỳ dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Cùng với hàng loạt những di tích lịch sử trong đó có một số di tích lịch sử liên quan tới thời Đinh-Tiền Lê, TK 10 (đền Đồng Bến, liên quan tới sự tích bến Vân Sàng, nơi Thái Hậu Dương Vân Nga trao áo bào cho Lê Hoàn; đền Hiềm, nơi nhân vật lịch sử nguyễn Bặc đã hóa thân thành thần núi; chùa Bát, trong không gian của nhà Sở Nông nghiệp; trường lắp máy, một ngôi chùa lớn bên ngã ba sông Đáy và Vân …); liên quan tới thời Trần TK13-14 (chùa Sệu, vua Trần Thái Tông cho xây dựng; chùa Đẩu Long; phủ Võng, liên quan tới nhân vật lịch sử Yết Kiêu, thời Trần….); những di tích liên quan tới thời kỳ Nam-Bắc triều TK 15-16, trong thời gian tranh chấp thường xuyên giữa quân đội Mạc và Lê Sơ nhưng mạng lưới thương nghiệp nhỏ và chợ vẫn được duy trì, hình thành một số chợ mới như chợ Đa Giá, chợ Cam Giá, chợ Trạo cũng như quá trình hình thành các làng gắn với các di tích; nhân vật lịch sử; ông tổ của các dòng họ (làng Phúc Thành; làng Phương Đình, bên cồn cát ở phía bắc còn xuất lộ rất nhiều mảnh gốm sứ ở thế kỷ 16; Làng Phúc Lộc, gắn liền với các dòng họ Phạm; họVũ; làng Thư Điền với dòng họ Nguyễn Tử…đều là những tư liệu hết sức quan trọng nói lên lịch sử hình thành làng, quá trình tụ cư về thành phố Ninh Bình ngày nay) cần được tiếp tục nghiên cứu dưới góc độ liên nghành khảo cổ học; môi trường; lịch sử văn hóa…mà trước hết cần có quy hoạch khảo cổ, có kế hoạch bảo tồn di tích, xây dựng bảo tàng chuyên nghành.
Quá trình du nhập các tôn giáo, tín ngưỡng cũng như tiến trình phát triển…cần được tiếp tục nghiên cứu bằng phương pháp liên nghành, đa ngành.
Dòng sông Ngô Đồng làm nên Danh thắng Tam Cốc
Khởi nguồn từ dòng Suối Tiên chảy êm đềm qua những cánh đồng lúa, thuộc phạm vi Di sản Văn hoá và Thiên nhiên Thế giới Quần thể danh thắng Tràng An. Sông Ngô Đồng chảy theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, theo nét sơn văn thông thường, làm nhịp cầu nối thông giữa các thung lũng đá vôi, luồn qua ba hang, bởi vậy được gọi là Tam Cốc. Lại lấy thứ tự từ ngoài vào trong (từ vùng đệm đi sâu vào vùng lõi trung tâm của di sản theo dòng Ngô Đồng) để gọi tên từng hang: Hang Cả, hang Hai, hang Ba. Tên cụ thể của từng hang không gọi theo chữ Hán (Tam Cốc) mà theo nghĩa thuần Việt.
Lịch sử địa chất, địa mạo: Khu vực Tam Cốc nói riêng, di sản Tràng An nói chung được các nhà địa chất trong nước và quốc tế đánh giá là một thí dụ điển hình cho tháp đá vôi nhiệt đới ẩm ở giai đoạn cuối của quá trình phát triển địa mạo, và là một mô hình để nhận biết và so sánh với các khu vực tương tự trên thế giới. Sản phẩm của quá trình phân cắt mạnh của khối đá vôi lớn được nâng lên trong hàng trăm triệu năm, cảnh quan chứa đựng một dãy hoàn chỉnh các dạng địa hình đá vôi điển hình, bao gồm tháp, lũng (hố karst), thung lũng (hố sụt), các cấu trúc sụt lở và các lớp trầm tích, hang ngầm và sông ngầm, hang động và trầm tích hang động. Một ý nghĩa khoa học quan trọng nữa là cảnh quan các dạng karst chuyển tiếp giữa cụm đỉnh karst (bao gồm các tháp liên kết với nhau bằng những dải núi sắc và quèn karst) với rừng đỉnh karst (bao gồm các tháp đơn lẻ nằm độc lập trên đồng bằng bồi tích như núi Văn; núi Võ), thể hiện những giai đoạn khác nhau trong quá trình phát triển địa hình đang diễn ra trong chu kỳ xâm thực karst. Mạng lưới các đứt gãy song song giao nhau chia cắt khu vực thành ô mạng, và thúc đẩy sự phát triển của các trũng karst tròn, kín. Các bồn trũng và thung lũng ngập nước này liên thông với nhau bởi các dòng chảy, chảy qua một mạng lưới phức tạp các hang động và hang ngầm, có những hang xuyên qua núi. Trần hang có dạng “xâm thực rãnh” do dòng chảy, và nhiều loại trầm tích hang động cacbonat, bao gồm măng đá (nhũ đá, măng đá và cột) và dải mỏng (rèm đá). Một ý nghĩa khoa học lớn nữa là sự hiện diện rộng rãi của một loạt các ngấn xâm thực cao trên các vách đá, với những hang động, nền sóng vỗ, lắng đọng bãi biển và vỏ sò, là bằng chứng cho mực nước biển cũ.
Trong thời kỳ Pleistocene và Holocene, cảnh quan khối đá vôi Tam Cốc hoàn toàn bị biến đổi bởi các đợt biển tiến và biển thoái. Ở phía Đông Nam, hố sụt karst và đồng bằng tích tụ tạo nên các vũng biển mà ngày nay là các vùng trũng và cánh đồng lúa, hệ thống đường nước hiện tại (dòng Ngô Đồng) là sự kế thừa của các dòng suối cổ chảy ra đường bờ biển thấp hơn và xa hơn. Dọc hai bên vụng biển, và trên các vách tháp karst và sống karst là các ngấn biển rõ rệt ở hai độ cao, 1,5 - 2,5m và 3,5 - 4,0m, với vỏ hàu hà bám trên đó. Ở đây, có các thềm và bậc chia cắt bởi sóng liên quan đến các ngấn biển và ngấn sóng này. Các vết tích mực nước biển cổ hơn từ thời kỳ Pleistocene có thể quan sát thấy ở các vụng biển hình thành trước đó. Các bề mặt mài mòn này được hình thành trên các tháp hoặc đảo nón ở các độ cao 10 - 15m, 20 - 25m, 40m và 50 - 60m.
Con người hội tụ về đây: Bên dòng Ngô Đồng có những địa điểm nổi bật trong khu vực Đông Nam Á và trên thế giới với những bằng chứng cho thấy cách con người tương tác với cảnh quan thiên nhiên và thích ứng với những thay đổi quan trọng về môi trường kéo dài hơn 30.000 năm, từ 1.200 đến 30.000 năm. Lịch sử văn hóa liên tục và tương đối dài có mối quan hệ chặt chẽ với tiến hóa địa chất gần đây của khối karst đá vôi vùng Tam Cốc nói riêng và Tràng An nói chung. Con người cổ là một phần không thể tách khỏi cộng đồng sinh vật đã được thiết lập trong khu vực đá vôi ít nhất là từ thời kỳ Băng hà cực đại cuối cùng. Trong thời gian này, họ đã trải qua một số biến đổi địa lý và khí hậu khắc nghiệt nhất trong lịch sử Trái đất, bao gồm việc cảnh quan ngập nước tái diễn do sự dao động mực nước biển.
Vùng Tam Cốc đã biến đổi từ cảnh quan đất liền thành cảnh quan biển trong một số lần. Có những thời điểm, khối đá vôi ở xa biển, nhưng có những thời điểm vùng Tam Cốc là một quần đảo giữa đại dương, lúc đó chúng ta không thể di chuyển bằng thuyền qua các hang hiện tại vì trần hang lúc đó còn nằm sâu dưới mực nước biển. Toàn bộ môi trường đất liền bị tác động dưới sự biến đổi của khí hậu và mực nước biển với các điều kiện môi trường đất trũng sông, đầm lầy, cửa sông và bờ biển. Rừng thay đổi về cấu trúc và thành phần từ kiểu rừng mưa nguyên sinh tán kín tới rừng khô theo mùa, với rừng ôn đới và các đồng cỏ trong các giai đoạn khí hậu mát mẻ thịnh hành. Con người tới khu vực đá vôi có thể theo mùa để kiếm thức ăn quan trọng - ốc cạn (ốc núi). Các nguồn thức ăn khác tìm thấy trong các đống rác bếp khai quật ở các hang bao gồm các nguồn lợi từ sông – cua nước ngọt, các loài nhuyễn thể, cá và rùa. Số lượng xương động vật có vú thấp cho thấy việc săn bắn động vật là theo cơ hội, có khỉ, hươu, lợn và sóc, bổ sung nguồn dinh dưỡng đáng tin cậy cho bữa ăn. Từ Sơ kỳ Holocene, rõ ràng, biển tiến đã làm thay đổi cảnh quan thành các vũng biển và các đầm lầy nước mặn, vào khoảng 5.500 năm trước, các sưu tập động vật khai quật được ở các hang thấp và các di chỉ ở khu vực rìa cho thấy số lượng nguồn lợi từ biển tăng lên.
Các bằng chứng môi trường cổ ở khu vực Tam Cốc, kết hợp với khảo cổ học, đã cho những thông tin quan trọng về điều này và các môi trường đã mất, lịch sử tiến hóa và tính đa dạng, cũng như việc con người đã thích ứng như thế nào với điều kiện sau giai đoạn băng hà cuối cùng. Những phát hiện rõ ràng về đặc điểm thực vật xưa cùng các mối liên quan gần gũi giữa các chứng cứ khảo cổ học và môi trường cổ như vậy là không phổ biến ở Đông Nam Á và, trong trường hợp này, Tam Cốc đã nhanh chóng được công nhận về khoa học như là một chuỗi điển hình trong khu vực. Câu chuyện văn hóa tiền sử ở khu vực này là hình ảnh thu nhỏ của quá trình toàn cầu về ứng phó của con người đối với biển tiến sau băng hà trong khu vực này tới mức độ nó có thể được coi là mô hình so sánh với các địa điểm khác trong khu vực cùng chịu các tác động này. Tam Cốc, Tràng An cũng là một trong số ít các di sản có giá trị ở Đông Nam Á giữ lại nhiều đặc điểm ban đầu không chịu ảnh hưởng lớn từ con người, động vật và các nhân tố khác ở thời gian sau đó. Tràng An mang đặc điểm về quá trình tương tác giữa con người - môi trường và là một kho tư liệu vô giá toàn cầu cho việc tìm hiểu quá trình thích ứng, trước thay đổi cảnh quan trong điều kiện biến đổi môi trường.
Cũng tại nơi đây hơn 700 năm về trước vua Trần Thái Tông cho lập am tu hành, xây dựng Hành cung Vũ Lâm trở thành căn cứ địa vững chắc của quân dân thời Trần trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ 2, thứ 3. Cũng tại nơi đây Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông xuất gia tu hành trước khi lên Yên Tử lập ra Thiền phái Trúc Lâm mang đậm bản sắc văn hoá Việt Nam.
Những đề xuất
Trong công cuộc khôi phục, bảo tồn phát huy giá trị di sản, bản sắc văn hóa dân tộc hôm nay cần lưu ý đến trầm tích di sản thiên nhiên và văn hoá bên những dòng sông. Với sông Hoàng Long, sông Đáy, sông Vân cần gắn trong bối cảnh liên kết vùng văn hóa sông Hồng, làm cơ sở bảo tồn di sản văn hoá, phát triển du lịch, du lịch trên sông gắn với những giá trị của nền văn hoá sông nước, lấy đây là một trong những trung tâm tìm hiểu về lịch sử văn hóa dân tộc, thông qua các công viên khảo cổ học, di tích lịch sử văn hóa, qua sân khấu thực cảnh: theo dòng ký ức Hoàng Long; qua công nghiệp văn hoá. Cần hết sức quan tâm việc bảo tồn các bến nước, đường nước, con ngòi nối thông với dòng Sào Khê và việc nối thông giữa dòng Sào Khê với sông Hoàng Long và sông Vân. Để bảo tồn tốt những dấu tích lịch văn hoá bên dòng Sào Khê thì khi thực hiện việc nạo vét cần coi đây là một công trường khảo cổ chứ không thuần tuý là một công trường thuỷ lợi.
Cần bảo tồn các cửa nước qua các tuyến tường thành Hoa Lư, khơi lại dòng, bảo tồn các đường nước trong kinh thành Hoa Lư xưa (ngòi Chẹm…ngòi Hai, ngòi Thần.). Lưu ý đến vai trò của sông Sào Khê; dòng sông Hệ trong việc xây dựng hành cung Vũ Lâm.
Cải tạo, xây bổ xung hệ thống cống (không đơn thuần chỉ là cống thuỷ lợi, cần đảm bảo thẩm mỹ, thuyền du lịch có thể đi qua được) nối thông gữa các dòng sông trong lòng di sản và những con sông phía ngoài, đảm bảo điều tiết nước, lưu thông đường thuỷ phục vụ khách du lịch, (từ sông bến Đang vào hang Bụt, thung Nham chưa có cống điều tiết nước
Hơn nữa cần có công nghệ sử lý nước thải bề mặt và sinh hoạt thật tốt trước khi cho nhập vào những đường nước kể trên.. Cùng với đó là việc sưu tầm, số hoá, bảo tồn, phục dựng những di sản văn hoá vật thể, phi vật thể có liên quan gắn với phát triển du lịch cộng đồng.
Cần có các đề án nghiên cứu thuỷ văn một cách công phu có đủ dữ liệu để giải quyết các vấn đề điều tiết nước, lưu thông dòng chảy, ứng phó với biến đổi khí hậu, thiên tai (mưa bão, biển tiến…). Đề án nghiên cứu, điều tra địa chất, địa mạo khảo cổ học để có cơ sở dữ liệu bảo tồn giá trị cảnh quan, lịch sử vùng đất cùng những giá trị lịch sử văn hoá.
Có chính sách phát triển nông nghiệp hữu cơ tạo ra những sản phẩm nông sản có chất lượng cao gắn với những câu truyện văn hoá bên những dòng sông, nâng cao giá trị sản phẩm.
Chúng ta có diện tích mặt nước khá lớn từ các đầm hồ, sông ngòi, gắn với những thắng cảnh tuyệt sắc, ghi lại những dấu ấn lịch sử nhân loại, những nốt son trong lịch sử dựng và giữ nước, thống nhất quốc gia dân tộc cùng những câu truyện huyền thoại đầy sắc mầu trong dân gian. Việc bảo tồn, phục dựng khơi thông những dòng sông, bảo tồn phục dựng những di tích lịch sử văn hoá, những di sản văn hoá phi vật thể, bảo tồn những ngôi nhà cổ cùng với những công trình kiến trúc làm nên xóm làng xưa, kinh thành Hoa Lư xưa bên những dòng chảy lịch sử văn hoá sẽ là điểm tựa, khơi nguồn nhịp đập từ quá khứ, tiếp sức, tạo động lực, định hướng, làm nên bản sắc cho một đô thị di sản lịch sử nhân loại trong tương lai.
Nguyễn Cao Tấn - Phó Giám đốc Sở Du lịch Ninh Bình