DI TÍCH LỊCH SỬ VÀ THẮNG CẢNH CHÙA VÀ ĐỘNG BÍCH ĐỘNG, XÃ NINH HẢI, HUYỆN HOA LƯ, TỈNH NINH BÌNH

Chùa Bích Động với vẻ đẹp được ca ngợi xếp hàng thứ hai sau Hương Tích, được gọi là “Nam thiên đệ nhị động”. Chùa được hình thành từ năm 1428, đầu thời Hậu Lê với quy mô là một ngôi chùa nhỏ ở trên đỉnh núi. Theo sách “Đại Nam Nhất Thống Chí” đã ghi: Năm Chính Hòa thứ 15 (1695) có hai vị sư là Chí Kiên và Chí Thể đến khu vực Đam Khê, thấy phong cảnh kỳ thú, núi non trùng điệp, lại phát hiện ra nhiều hang động đẹp và đã có chùa, nên hai vị sư bèn vận động nhân dân trong vùng tôn tạo, mở mang thêm cảnh chùa… xây dựng lại thành 3 ngôi chùa: chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng để tu hành. Năm Đinh Hợi (1707), hai nhà sư Chí Kiên và Chí Thể đã đúc một quả chuông lớn, hiện còn treo ở động Tối. Hai năm sau, năm Kỷ Sửu (1709) vào tháng 8 âm lịch, hai nhà sư Chí Kiên và Chí Thể lại làm bia khắc minh văn chùa Bích Động viết bằng chữ Hán, trong đó có đoạn trích được dịch nghĩa:

Từng lên núi ấy
Có phúc, có duyên
Mở núi, đục đá
Tịnh khí lưu truyền

Chùa Bích Động được xây dựng theo kiểu chữ “Tam” Hán tự, ba tòa không liền nhau, tam cấp dọc theo sườn núi, dựa vào thế núi từ thấp lên cao thành 3 ngôi chùa riêng biệt: Hạ, Trung và Thượng. Điều độc đáo của chùa Bích Động là núi, động và chùa bổ sung cho nhau, lại ẩn hiện những cây đại thụ xanh biếc, làm cho chùa hòa nhập với cảnh trí thiên nhiên ngoạn mục. Toàn cảnh như một bức tranh núi rừng hung tráng, dát lên một phù điêu gồm 3 ngôi chùa cổ kính, mái ngói rêu phong, có đủ 8 cảnh đẹp mà người xưa đã gọi là Bích sơn bát cảnh. Ba chùa lại được xây dựng trên sườn núi cao, dưới lại có động Xuyên Thủy. Cầu đá dẫn vào cổng Tam quan chùa Bích Động, được ghép bằng những phiến đá xanh. Ở đây có con đường bên chân núi dài khoảng 55m lát gạch là con đường “Nhất chính đạo” để đi vào chùa Hạ.

Khu vực chùa Hạ quay hướng Tây Bắc, toạ lạc dưới chân núi Bích Động trên nền cao hơn 2m so với sân gạch, được kè bằng đá phiến. Cũng giống như các ngôi chùa khác ở làng quê Việt Nam, kiến trúc chùa Hạ cũng theo kiểu chữ Đinh (Hán tự). Ở Thượng điện dựng toàn bằng cột đá liền một khối, mái chùa cong hình lưỡi đao lợp ngói âm dương.

Từ chùa Hạ du khách bước lên 120 bậc đá ở bên trái lên lưng chừng dãy núi Ngũ Nhạc là chùa Trung. Đây là ngôi chùa rất độc đáo ít nơi có được, vách núi ở đây hõm vào như miệng rồng chứa hẳn một phần ngôi chùa bên trong, chỉ còn lại một phần mái trước chùa là lộ thiên. Chùa có 3 gian thờ Phật, từ Thượng điện, bước lên 21 bậc đá là đến Động Tối. Động Tối có nhiều nhũ đá được thiên nhiên mài tạc qua hàng triệu năm tạo thành những ông tiên, rồng lượn, voi chầu, hổ phục chim đại bàng, kho tiền, kho thóc… Tất cả như một thế giới cổ tích bị hoá đá khiến quý khách phải ngỡ ngàng trước vẻ đẹp thần tiên của tạo hoá. Nhìn ra phía ngoài là cầu Giải Oan, hầu hết khách qua đây thường “thỉnh” lên ba tiếng chuông ngân nga như để “giải oan” cho tâm hồn mình nơi cửa Phật được thanh thản.

Từ cửa Động Tối du khách bước theo những bậc đá dẫn lên chùa Thượng, từ đây có thể phóng tầm mắt bao quát được toàn bộ cảnh đẹp của vùng núi non hùng vĩ của Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới Quần thể danh thắng Tràng An. Từ chùa Thượng nhìn ra xa có 5 ngọn núi đứng độc lập chầu về núi Bích Động, trông giống như 5 cánh hoa Sen, gọi là Ngũ Nhạc Sơn, gồm núi Tầm Sặng, núi Gia Định, núi Con Lợn, núi Đầu Cầu và núi Hang Dựa.

Chùa Bích Động không những được biết đến là ngôi chùa cổ linh thiêng từ xưa đến này mà còn là một tác phẩm nghệ thuật cổ kính, trang nghiêm của con người hoà nhập với khung cảnh thiên nhiên tươi xanh, tĩnh lặng góp thêm cho bức tranh toàn cảnh của một vùng di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới được hoàn mỹ và trường tồn cùng thời gian mà du khách không thể bỏ lỡ khi đến với vùng đất cố đô Hoa Lư, Ninh Bình./.

Phòng Nghiệp vụ Nghiên cứu
Ban Quản lý Quần thể danh thắng Tràng An