DI TÍCH LỊCH SỬ CHÙA NGẦN, XÃ TRƯỜNG YÊN, HUYỆN HOA LƯ, TỈNH NINH BÌNH

Địa thế chùa nằm giữa cánh đồng Xứ Ngần, bên chân núi Đại Vân, chùa giáp với Quèn Vuông, là nơi thông nhau giữa thành Đông và thành Tây của kinh đô Hoa Lư xưa, bốn bên là núi non bao bọc thế vững vàng, phía trước là ao hồ rộng tạo thủy tụ về. Kiến trúc chùa theo kiểu chuôi vồ, quay hướng tây nam. Chùa hiện nay bao gồm các hạng mục: Tiền bái, Thượng Điện, nhà Tổ, nhà Khách, nhà Bếp, mộ Tháp.

Qua cổng Tam Quan xây theo kiểu phương đình với 4 mái cong vút, cây ăn quả và cây thuốc nam xanh mướt quanh năm. Chính điện gồm 5 gian Tiền Bái và 2 gian Thượng Điện chạy dài về phía sau. Mái chùa lợp ngói nam, giữa mái của tòa tiền bái có đắp hình rồng chầu lá lật, hai bên đầu đốc xây bằng đá có chạm thông phong hình chữ Thọ. Tiền Bái kiến trúc hình chữ nhật dài gồm 6 hàng cột, vì kèo giá chiêng, 6 hàng cột giữa vươn cao nâng đỡ phần mái. Cột, hoành, xà đều được kê trên chân tảng bằng đá, làm theo kiểu thắt cổ bồng. Kiến trúc xung quanh phần mái đều có phủ diềm bằng gỗ, chạm hoa văn cách điệu tinh xảo, trang trí âm dương hòa hợp. Tòa Tiền Bái là nơi thờ phật. Hai gian dĩ của tòa tiền bái, bên tả có cỗ ngai thờ bài vị của các dòng họ vào đời Lê Kính Tông (1600 – 1619) đã có công đóng góp công đức, tiến cúng, tu sửa, trùng tu lại chùa. Gian dĩ bên hữu có cỗ ngai thờ bài vị của Tam Vị Thánh Mẫu.

Tiếp giáp với tòa Tiền Bái phía bên hữu, nằm về phía tây của chùa là nhà thờ Tổ. Đây là khu vực thờ tổ tây và tổ ta, bức đại tự trước ban thờ đề 3 chữ Hán lớn: Phụng Như Lai. Tiếp giáp với sân chùa bên trái là nhà khách, gồm 5 gian xây dựng quay theo hướng tây. Hai gian bên đốc dùng làm nơi nghỉ ngơi của nhà sư trụ trì. Ba gian giữa kê bàn ghế dùng làm nơi tiếp đón khách thập phương, nơi hội họp. Phía tây bắc của chùa, cạnh cổng vào bên tay phải có hai ngôi tháp, trong tháp an táng hài cốt của nhà sư trụ trì chùa đã viên tịch.
Hiện tại, ở chùa còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý như: Quả chuông lớn có quai là hai con rồng cuốn với đường kính miệng 40cm, cao 60cm. Rồng tạc râu mép nhỏ soắn nhau, đường nét chạm trổ mềm mại và tinh sảo. Trên mặt chuông có khắc chữ Hán cho ta biết: chuông được đúc vào ngày 28 tháng 6 năm Thành Thái thứ nhất (Kỷ Sửu) 1889; Hai cỗ ngai mang phong cách Nguyễn, cỗ bên hữu thờ bài vị của 12 cửa họ ngụ tại thôn Chi Phong, cỗ bên tả thờ bài vị của Tam vị Thánh Mẫu; Một đôi câu đối thiếp vàng khắc vào gỗ có niên đại Duy Tân Nguyên Niên (1907)…

Hằng năm, dân làng và phật tử thập phương tổ chức hội hè, tế lễ tại chùa vào các ngày: Ngày rằm tháng Giêng: Lễ đầu năm là lễ cúng Phật cầu nguyện cho xã tắc quốc thái dân an, cầu cho dân trong thôn xóm bình an thịnh vượng.

Ngày 8 tháng 4: Lễ Lập hạ kéo dài trong cả ngày, do nhà sư trụ trì làm chủ đàn tế. Lễ lập hạ cầu cho quốc thái dân an, chống ách trừ tai, mùa màng xanh tốt.
Ngày 15 tháng 4: Lễ Phật đản, dâng hương hoa lễ vật dâng lên và tòa Tam bảo, các phật tử không sát sinh, mọi người đều ăn chay, tự chiêm nghiệm về hành động của bản thân để làm cho tâm hồn được thanh tịnh.
Ngày 15 tháng 7: Lễ Vu lan xá tội vong nhân là lễ cầu cho mọi tội lỗi đều được gột bỏ sạch, dưới tấm lòng từ bi hỷ xả của nhà Phật. Hướng mọi chúng sinh đi theo con đường hướng thiện của Phật pháp từ bi.

Các hình thức sinh hoạt văn hóa trên đây còn giữ lại được ở chùa Kim Ngân, là dịp để cho nhân dân thưởng ngoạn nghệ thuật, tài năng và cùng hướng tới đời sống tâm linh truyền thống của dân tộc. Mỗi người dân đi lễ như được gần gũi hơn với linh thiêng hòa khí lịch sử dân tộc. Với mong muốn có một cuộc sống bình an, phồn thịnh. Đó cũng là một nét đẹp đậm đà trong bản sắc văn hóa Việt Nam.

Phòng Nghiệp vụ Nghiên cứu
Ban Quản lý Quần thể danh thắng Tràng An