Chùa Bái Đính cổ là ngôi chùa theo lối kiến trúc chùa trong động, tương đối lớn ở Ninh Bình cũng như ở nước ta hiện nay. Chùa trong động đá, thờ Phật và thờ Thần. Để lên được nơi trang nghiêm linh thiêng này, du khách phải leo qua hơn 300 bậc đá. qua cổng tam quan ở lưng chừng núi. Lên hết dốc núi sẽ tới ngã ba: bên phải là Hang sáng thờ Phật và Thần, bên trái là Động tối thờ Mẫu và Tiên. Phía trên cửa Hang sáng có 4 chữ đại tự “Minh Đỉnh Danh Lam” khắc trên đá do vua Lê Thánh Tông ban tặng ,có nghĩa là: “Lưu danh thơm cảnh đẹp”. Khi lên vãn cảnh chùa trên đỉnh Bái Đính, vua Lê Thánh Tông đã tạc một bài thơ tứ tuỵêt chữ Hán được dịch như sau:
Đính Sơn danh tiếng thực cao xa
Che chở kinh thành tự thuở xưa
Nhân kiệt, địa linh nên vượng khí
Núi thiêng cảnh đẹp vững sơn hà.
Bàn thờ Phật được đặt ngay chính giữa Hang sáng với không gian huyền bí nơi cửa thiền. Bên trong, các tượng phật được trang hoàng linh thiêng, uy nghi.
Động có chiều cao khoảng 2m, dài 25m, rộng 15m, vòm trần hang động rộng lớn đã trở thành những mái chùa kiên cố. Động Tối lớn hơn hang Sáng, gồm 7 buồng, có hang trên cao, có hang ở dưới sâu, các hang đều thông nhau qua nhiều ngách đá, có hang nền bằng phẳng, có hang nền trũng xuống như lòng chảo, có hang trần bằng, có hang được tạo hóa ban tặng cho một trần nhũ đá rủ xuống muôn hình vạn trạng. Trong động tối có giếng ngọc tạo thành do nước lạnh từ trần động rơi xuống. Các vị Tiên được thờ ở nhiều ngách trong động. Đi đến cuối động sẽ có có cửa hang lớn mở ra trước mặt là thung lũng xanh ngút ngàn. Bước từ cửa hang xuống sẽ đến đền thờ thần Cao Sơn – vị thần núi Vũ Lâm. Thần Cao Sơn là vị thần trấn giữ cửa ngõ vào vòng thành phía Tây. Ngôi đền thần Cao Sơn hiện tại được tu tạo có kiến trúc xây tựa lưng vào núi, có hành lang ngăn cách với thung lũng ở phía trước. Theo truyền thuyết, thần Cao Sơn là một trong 50 người con của Lạc Long Quân – Âu Cơ. Vị thần này có công phù trợ quân Lê Tương Dực diệt được Uy Mục, sau cũng được dân làng Kim Liên rước về thờ và được phong là Cao Sơn đại vương trấn phía Nam kinh thành, một trong Thăng Long tứ trấn. Thần Cao Sơn có công giúp đỡ người dân vùng Hoa Lư xưa làm ăn sinh sống đồng thời bảo vệ khỏi các thế lực phá hoại vì vậy đã được nhân dân lập đền thờ trong khu chùa cổ Bái Đính. Thần Cao Sơn cùng với thần Thiên Tôn và thần Quý Minh là ba vị thần trấn ngự ở ba cửa ngõ phía tây, đông và nam của cố đô Hoa Lư.
Đền Thánh Nguyễn nằm ngay tại ngã ba đầu dốc, xây theo kiểu tựa lưng vào núi, trong đền có tượng của ông được đúc bằng đồng. Khu vực núi Bái Đính nằm cách quê hương Đức Thánh Nguyễn Minh Không 4 km. Nguyễn Minh Không có công lớn chữa bệnh lạ cho vua Lý Thần Tông, tạo dựng một vườn thuốc quý để chữa bệnh cho dân, có công lập chùa thờ Phật và cũng là người có công sưu tầm, phục hưng nghề đúc đồng, tinh hoa của văn minh Đông Sơn – văn minh Việt cổ mà trở thành tổ sư nghề đúc đồng. Ông dày công tầm sư học đạo, để từ một nhà sư ở từ phủ Tràng An ra kinh thành làm Quốc sư, đứng đầu hàng tăng ni trong nước, danh vọng và đạo pháp đạt đến đỉnh cao, đóng góp hết sức tích cực vào công cuộc phục hưng và phát triển văn hoá dân tộc Việt Nam về nhiều mặt: triết lý, văn học, kiến trúc, mỹ thuật, kỹ nghệ… làm nền tảng cho sự phát triển của văn hoá Việt sau này.
Núi chùa Bái Đính chính là nơi xưa kia Đinh Tiên Hoàng đế từng lập đàn tế trời cầu mưa thuận gió hòa. Sau này vua Quang Trung chọn làm nơi tế cờ động viên quân sĩ trước khi ra Thăng Long đại phá quân Thanh. Thời kỳ cách mạng, núi chùa Bái Đính là nơi hoạt động bí mật của các chiến sỹ ta. Hai cuộc diễn thuyết cách mạng ở núi chùa Bái Đính năm 1943 và năm 1944, là nơi căn cứ cách mạng của xã Quỳnh Lưu (Nho Quan), đã góp phần phát động phong trào cách mạng ở Ninh Bình, tiến tới cách mạng tháng tám năm 1945 thành công. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, núi chùa Bái Đính là trụ sở hoạt động của nhiều cơ quan sơ tán, nhiều đơn vị bộ đội, nơi nuôi dưỡng thương binh, nơi sinh hoạt đoàn thể, đại hội Đảng của địa phương. Năm 1997, chùa được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cách mạng cấp Quốc gia.
Chùa Bái Đính cổ ghi dấu những chứng tích lịch sử không chỉ của Phật giáo Việt Nam mà còn nhiều biến cố của cách mạng với nhiều sự kiện lớn. Khác với sự uy nghi, tráng lệ của khu chùa Bái Đính mới, chùa Bái Đính cổ lại trầm mạc, tĩnh lặng và linh thiêng, giao hòa tín ngưỡng thờ Phật-Thần-Tiên. Bái Đính cổ tự, tạo nên không gian lễ bái “không không-sắc sắc-Tiên-Thần-Phật” mỗi dịp lễ hội xuân về trên đỉnh danh lam. Chùa Bái Đính khai hội vào ngày mùng sáu giêng hàng năm, thu hút hàng vạn phật tử, du khách trong và ngoài nước về chiêm bái. Chùa Bái Đính cổ khẳng định tâm thức dân gian, thể hiện văn hóa dân tộc không thể thiếu trong đời sống văn hóa làng xã, chiếm một vị trí quan trọng trong di sản văn hóa Việt Nam.
Phòng Nghiệp vụ Nghiên cứu
Ban quản lý Quần thể danh thắng Tràng An