Đền Trần hay còn gọi là đền Nội Lâm, ngôi đền đá cổ nằm lưng chừng núi trên dãy núi Tràng An được biết đến là một trong "Hoa Lư tứ trấn" đây là một trong bốn công trình được xây dựng nhằm trấn giữ bốn phương huyết mạch trên mảnh đất cố đô Hoa Lư (gồm: Đền Thần Thiên Tôn ở phía Đông, Đền Thần Cao Sơn ở phía Tây, Đền Đức Thánh Nguyễn ở phía Bắc và Đền Thần Quý Minh ở phía Nam). Đền thờ vị tướng thời Hùng Vương thứ 18, là ngôi đền nổi tiếng linh thiêng,với nhiều truyền thuyết được người dân bản địa lưu truyền đến ngày nay.

Đền Trần hay còn gọi là đền Nội Lâm
Từ bến thuyền Tràng An, khoảng hơn một giờ ngồi thuyền ngắm cảnh, đi qua cáchang Tối, hang Sáng, hang Nấu Rượu, sau đó leo bộ qua hàng trăm bậc đá quanh co, thả bộ xuống thung dưới núi, du khách sẽ được đặt chân đến đền Trần (hay còn được gọi là đền Nội Lâm, nghĩa là đền trong rừng), ngôi đền nổi tiếng linh thiêng nằm ở thung Vụng Thắm, Tràng An. Vị trí của ngôi đền này cũng chính là vị trí trung tâm của Quần thể danh thắng Tràng An ( 105o 53’ 47’’ kinh Đông, 20o15’ 24’’ vĩ Bắc)
Đền Trần Thờ Thánh Quý Minh đại vương và phu nhân là Minh Hoa công chúa.
Quý Minh cùng với Sơn Thánh Tản Viên và Cao Sơn Đại Vương là ba anh em con chú con bác, quê ở động Lăng Xương, huyện Gia Hưng, tỉnh Hương Hóa, đạo Sơn Tây (Nay thuộc thành phố Hà Nội). Các ông sinh ra và lớn lên trong gia đình nhân đức, được dạy dỗ chu đáo, lại có bản tính thông minh, nên các ông học hành tấn tới, từ thiên văn đến địa lý, không gì là không hiểu.
Ông Tuấn (tức Thánh Tản Viên) cùng ông Sùng gọi là Tả Kiên chầu, ông Hiểu (tức thánh Quý Minh) gọi là Hữu Kiên chầu, nhân dân gọi cá ông là Ba Vị Thánh Tản.
Ba ông có ông đánh đuổi quân Thục, Vua Hùng ban chiếu đưa quân về, gia phong Sơn Thánh là Quốc Chủ, ông Sùng là Tả Đô Đài Đại Phu, ông Hiểu là Hữu Đô Đài Đại Phu. Ba ông bái tạ vua Hùng, xin tuần du thiên hạ, đến nơi đâu có cảnh trí bồng lai cho lập sinh từ để phụng thờ về sau. Một hôm, Quý Minh Đại vương về Lãng Sơn, đi lên đỉnh núi, có mây ngũ sắc, trăm thú đến chầu, vương bỗng dưng hóa. Đương lúc hành lễ đã thấy mối đắp thành mồ lớn. Quan quân thấy kỳ lạ, liền dâng biểu tấu lên triều đình. Vua biết tin, hết đỗi xót thương, sai đình thần hành lễ, bao phong mĩ tự, phong là Quý Minh hiển linh Đại vương.
Về sau, các sinh từ, đồn lũy cũ có tới vài trăm nơi lập đền thờ để báo đáp ân đức. Thần luôn tỏ rõ linh ứng. Đến thời nhà Đinh, nhà Trần nhờ Thần âm phù giúp họ Đinh thống lãnh giang sơn, trấn yên bờ cõi. Sống làm tướng giỏi, chết làm thần thông. Người xưa từng nói rằng, ai có công lao tất được phụng thờ. Xưa kia ấp dân Tràng An đã lập đền thờ Ngài thung lung tại chân núi của thung Vụng Thắm, bị hư hỏng và tu sửa lại năm 1908 cho đến năm 1928 dời đền lên sườn núi, dựa Tây - Bắc, hướng Đông – Nam và xây dựng di tích tại vị trí như hiện nay với hệ thống cột, nhang án đều bằng đá xanh nguyên khối, mái được ghép bằng đá xanh, kiến trúc còn nguyên vẹn đến ngày nay.
Đặc biệt hiên của di tích có hai hàng cột đá còn nguyên bản thời Nguyễn. Hàng cột thứ nhất gồm 4 cột đá làm bằng đá xanh nguyên khối, kích thước 20x16cm, cao 1,47m. Mặt ngoài của cột chạm lộng và chạm thông phong đề tài độc long, mây, sóng nước, cá chép hoá rồng, sư tử và hoa cách điệu. Mặt hông của 4 cột đều trang trí hai đôi câu đối chạm khắc tinh xảo luôn vào thân cột. Hàng cột thứ hai cũng gồm 4 cột đá xanh nguyên khối. Hai cột ở ngoài cùng trang trí hình độc long chầu vào với đề tài hoa lá cách điệu, hai cột ở giữa trang trí hai câu đối với các nét chạm khắc bay bổng, có tính thẩm mỹ cao.

Các cột đá xanh nguyên khối được chạm khắc tinh xảo

Hoa văn trên cột được chạm nổi
Trên cột đá có ghi các câu đối chữ Hán với nội dung như:
Đôi số 1:
Địa tiếp Cồ đô thiên cổ thắng.
Các lâm cương lũng nhất hoằng thanh.
Dịch nghĩa:
Đất tiếp giáp kinh đô Đại Cồ Việt, muôn đời là cảnh đẹp
Lầu các có thung lũng bao quanh rộng rãi trong lành
Đôi số 2:
Nguy nhiên từ miếu kim y tích
Liệt thử cương loan thạch tác thành
Dịch nghĩa:
Đền miếu nguy nga còn tích cũ
Núi bọc vây quanh tựa xây thành
Đôi số 3:
Khuông phù Hùng quý, Trung hưng tướng.
Tĩnh trấn Nam thiên, Thượng đẳng thần.
Dịch nghĩa:
Phò giúp cuối đời vua Hùng, là tướng Trung hưng.
Trấn giữ trời Nam yên ổn, là thần Thượng đẳng.
Toà hậu cung có ban thờ tam cấp bằng đá xanh nguyên khối. Bên trên toà hậu cung có hai long cung, bên trong long cung có tượng Quý Minh đại vương và phu nhân của ngài là Minh Hoa công chúa. Bức tượng Quý Minh đại vương đặt trong đền được tạc ở tư thế ngồi trên bệ rất uy nghiêm, mắt nhìn thẳng, chân chữ ngũ, đầu đội mũ quan, tay phải cầm chùy, tay trái nắm chặt để trên đùi. Tượng của phu nhân Ngài tạc ở tư thế ngồi, chân chữ ngũ, nét mặt hiền từ, mắt nhìn thẳng, tay phải cầm quạt để ngang bụng, tay trái úp xuống đặt trên đầu gối.
Phía bên phải của đền có bệ thờ Mẫu Thượng Thiên Thượng Ngàn.
Ngôi đền không chỉ nổi tiếng với kiến trúc đá độc đáo mà còn là nơi có tín ngưỡng tâm linh rất linh thiêng, là ngôi đền nằm giữa không gian xanh với mật độ cây cổ thụ dày đặc và đa dạng. Các du khách thập phương xa gần và người dân nơi đây thường đến để dâng hương cầu phúc cho gia đình, cầu bình an, trong tiềm thức của nhân dân trong vùng tin rằng Quý Minh đại vương và phu nhân chính là đại diện cho sức mạnh, cho hạnh phúc và thể hiện sự hoà hợp yêu thương nhau trong gia đình.
Hàng năm vào ngày 18 tháng 3 âm lịch hàng năm, mở hội Tràng An, thuyền rước trên sông, kiệu rước dài theo vách núi, lộng lẫy nghi trượng, chiêng trống dậy trời, trăm thuyền nối đuôi, hang động xuyên thủy, nghi lễ trang nghiêm tại đền Nội Lâm tưởng nhớ công lao của đức thánh Quý Minh Đại Vương nhằm giáo dục truyền thống yêu nước và tinh thần đại đoàn kết dân tộc; thể hiện lòng thành kính và đạo lý truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, tính nhân văn sâu sắc trong cội nguồn văn hóa Việt Nam. Lễ hội Tràng An cũng là dịp để cầu mong quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, người người hạnh phúc.
Tin bài: Phòng Hợp tác Đối ngoại; Ảnh: Internet