QUÁ TRÌNH THIẾT LẬP QUAN HỆ NGOẠI GIAO GIỮA TRIỀU ĐINH VÀ NHÀ TỐNG - SỬ THỰC, TẦM VÓC VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ
Sách Trung
Hoa Cương mục tiền biên và Đại Việt sử ký toàn thư cho thấy việc bang giao với Trung Hoa của nước ta đã có từ thời Hùng
Vương, nhưng chưa được Trung Hoa coi trọng. Phải đến thời phong kiến
quân chủ Ngô Quyền chiến thắng trên sông Bạch Đằng,
giành được độc lập (938), mở ra thời kỳ độc lập tự chủ cho dân tộc ta, Trung
Hoa mới chú trọng đến vấn đề bang giao với ta với tư cách và vị thế của một nước, đặc biệt từ thời Đinh - Tiền Lê thì
Trung Hoa mới chú trọng tới quan hệ ngoại giao và các cuộc giao lưu tiếp xúc với
Sứ thần nước ta với họ. Chứng tỏ các triều đình nước ta đã vững mạnh, đã
ở thế độc lập tự chủ, có thể sánh vai cùng các triều đình Trung Hoa tồn tại
phát triển. Để có được những trang lịch sử ngoại giao lớn mạnh và vẻ vang trong
mối quan hệ bang giao với các triều đại phương Bắc, chúng ta cần phải nghiên cứu,
phân tích, đánh giá vai trò và tầm vóc của việc thiết lập quan hệ bang giao giữa
triều Đinh (Việt Nam) và triều đại nhà Tống (Trung Quốc).
Quá trình thiết lập ngoại giao giữa triều
Đinh và nhà Tống qua nguồn sử thực
Về quan hệ ngoại giao giữa triều Đinh và nhà Tống, đã được một
số nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu, song vẫn còn nhiều thông tin chưa được
khai thác và điều đó ít nhiều ảnh hưởng đến việc nhìn nhận, đánh giá khách
quan, công bằng về quá trình thiết lập ngoại giao của triều Đinh với nhà Tống.
Trong bài viết này, chúng tôi mong muốn khai thác nhiều nhất có thể các nguồn
tư liệu sử thực của cả Việt Nam và Trung Quốc, để từ đó đưa ra những nhận xét, góp
phần đánh giá khách quan và đầy đủ hơn về hoạt động ngoại giao thời Đinh Tiên
Hoàng.
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh sau khi đánh dẹp và thu phục các sứ
quân nổi dậy từ thời nhà Ngô, thống nhất quốc gia và lên ngôi Hoàng đế. Ở
phương Bắc, nhà Tống từng bước hoàn thành việc tiêu diệt các nước phương Nam, lần
lượt chiếm các nước Nam Bình, Hậu Thục và tiến đánh Nam Hán, cương thổ áp sát
nước Đại Cồ Việt non trẻ vừa mới thành lập.
Vua Ngô Xương Văn trước đây chỉ sai sứ quan lại với chính
quyền Nam Hán ở Quảng Châu mà chưa tiếp xúc với nhà Tống ở Biện Kinh. Trước
tình hình biến động về cục diện chính trị ở cả trong nước và ở Trung Quốc, triều
đình nhà Đinh đứng đầu là Đinh Tiên Hoàng đã chủ động thiết lập quan hệ bang
giao với triều đình Bắc Tống.
Trong
lịch sử các triều đại sau nhà Tống, việc sách phong đối với lịch triều Việt
Nam, thực ấp cũng không đạt đến kỷ lục một vạn hộ. Từ năm Thái Bình thứ 3 về
sau, sử liệu đã ghi chép triều Đinh có những lần đi sứ nhà Tống như sau:
Lần
thứ nhất:
-
Đinh Liễn, con trưởng của Đinh Bộ Lĩnh, vị hoàng đế khai quốc triều Đinh. Sử liệu
Việt Nam có chép “(Nhâm Thân năm thứ 3, Tống Khai Bảo năm thứ 5) sai Nam Việt
vương Đinh Liễn hỏi thăm nhà Tống. tr.181). (Nhâm Thân năm thứ 3, Tống Khai Bảo
năm thứ 5) sai Nam Việt vương Đinh Liễn sang nhà Tống]. tr.446 và sử liệu
Trung Quốc ghi (Khai Bảo năm thứ 5, tháng 5, ngày Kỷ Tị, Đinh Liễn ở Giao Chỉ
bắt đầu sai sứ nội phụ, trao cho quan tước (quyển 17, tờ 5).
Tuy nội dung ghi chép có
chỗ khác nhau nhưng phần lớn đều là năm này Đinh Liễn đi sứ nhà Tống.
Lần thứ 2:
-
Sử liệu Việt Nam không ghi chép họ tên người đi sứ, nhưng căn cứ vào Tống hội yếu tập cảo, có chép: “(Khai Bảo) năm thứ 6, tháng 4, nghe Thái
tổ đánh được Lãnh Biểu (tức Lưỡng Quảng), bèn sai sứ sang cống phương vật, dâng
biểu xin nội phụ. Tháng 6, lấy Trịnh Tú, Vương Thiệu Tộ làm Phụng tiến sứ Giao
Châu, đều được phong làm Ngân Thanh Quang lộc đại phu, Kiểm hiệu Tả tán kị thường
thị Thanh Quang lộc đại phu, kiêm Ngự sử đại phu, Thượng trụ quốc.”.
Lần
thứ 3:
-
Trịnh Tú đi năm Thái Bình năm thứ 6 (975), Khai Bảo thứ 8. Sử liệu Trung Quốc
không ghi chép họ tên người sang sứ, căn cứ vào sử liệu Việt Nam (Ất Hợi,
năm thứ 6, Tống Khai Bảo năm thứ 8), sai Trịnh Tú đem vàng lụa, sừng tê, ngà
voi sang Tống, tr.181. (Ất Hợi, năm thứ 6, Tống Khai Bảo năm thứ 8) bấy giờ đế
sai Trịnh Tú đem phương vật sang Tống, tr.449. “Tống năm Khai Bảo, Đinh Liễn
sai Trịnh Tú, Vương Thiệu Tộ, Giang Cự Hoàng cống vàng lụa, sừng tê, ngà voi”,
tr.331), được biết ngay năm Thái Bình thứ 4 sau khi sai sứ sang Tống, thì
vào năm thứ 6 lại cho Trịnh Tú và Vương Thiệu Tộ đi sứ, đồng thời nhiều lần
phái Sứ tiết Giang Cự Hoàng đi.
Lần
thứ 4:
-
Phò mã Trần Nguyên Thái đi năm Thái Bình thứ 7 (976) Tống Thái Tông Thái Bình
Hưng Quốc nguyên niên. Sử liệu Việt Nam ghi: Bính Tý, năm thứ 7, Tống Khai Bảo
năm thứ 9, tháng 10 về sau, Tống Thái Tông Khuông Nghĩa Thái Bình Hưng Quốc
nguyên niên, sai Trần Nguyên Thái sang Tống đáp lễ (tr.182). Bính Tý, năm thứ 7
(Tống Thái Tông Thái Bình Hưng Quốc nguyên niên) mùa xuân, sai sứ sang Tống.
Sai Trần Nguyên Thái đem phương vật sang thăm. (tr.451).
Lần
thứ 5:
-
Sử sách không ghi rõ tên, theo sử liệu
Việt Nam có ghi: năm Đinh Sửu, năm thứ 8 (Tống Thái Tông Thái Bình Hưng Quốc
năm thứ 2) sai sứ sang Tống, mừng Thái Tông lên ngôi. Tống hội yếu tập cảo ghi:
(Thái Bình Hưng Quốc năm thứ 2) tháng 12, ngày 27, Giao Châu Đinh Liễn sai sứ
đem phương vật sang cống. (Phiên di thất chi cửu)
Qua
đây chúng ta thấy, Trịnh Tú đi sứ 2 lần, Vương Thiệu Tộ đi sứ 2 lần, Giang Cự
Hoàng đi sứ 1 lần, Trần Nguyên Thái đi sứ 1 lần. Ngoài ra còn một lần có người
đi sứ nhưng sử liệu không chép họ tên. Như vậy, trong vòng 13 năm triều Đinh lập
quốc, tổng cộng có 5 lần đi sứ, với tổng là 8 lượt người. Điều đáng chú ý là,
ngoài Trần Nguyên Thái và vị sứ thần không được ghi chép họ tên ra, thì thân phận
của những người đi sứ đều là Nha hiệu (thân binh của Tiết độ sứ).
Triều
Đinh hướng tới chính quyền độc lập tự chủ, trước giai đoạn này, từ thời Tần Hán
trở lại, cho dù là Trưng Trắc, Triệu Ẩu, Lý Bí, Dương Thanh đã từng kiến hiệu lập
quan như thế nào, cũng đều không kéo dài được lâu, tức là nhanh chóng bị chính
quyền Trung Quốc bình định. Triều Đinh dựng lên là kết quả tổng hợp của liên
minh do Đinh Bộ Lĩnh vốn là nha binh (nha tướng) của Dương Đình Nghệ mà nên.
Đinh
Bộ Lĩnh không chỉ chấm dứt thời kỳ phân tranh mà hơn nữa ông còn thống nhất lại
12 sự cai quản vốn thuộc An Nam Đô hộ phủ, đồng thời lợi dụng chính sách phân
ly nội chính và ngoại giao để giải thoát thành công khỏi sự áp bức của chính
quyền lớn mạnh Trung Quốc, kiến lập nên một cơ chế “vùng đệm 緩衝” để chống lại các lực lượng thống nhất mới ở phương Bắc mới
nổi lên. Từ các bản đồ trên đây có thể thấy được thế lực của 12 sứ quân mà Đinh
Bộ Lĩnh đã thống nhất được là lực lượng ở vùng cốt lõi, chiếm được ưu thế về mặt
địa lý để sau khi Đinh Bộ Lĩnh thống nhất, ông đã thoát ly cục diện chính quyền
địa phương, và dần dần chuyển sang kiểu chính quyền quốc gia. Sự thành
công đó đã đưa chính trị nước ta vào thời kỳ tự chủ. Thế nhưng chính trong lúc
này, triều đình Đại Việt lại phải đối diện với vương triều thống nhất mới nổi
lên ở phương Bắc, cụ thể ở đây là nhà Bắc Tống. Đây chính là thời khắc then chốt,
việc phải làm như thế nào để sai sứ thần sang giao hảo với với vương triều ở
Trung nguyên là việc cực kỳ quan trọng, sứ thần ngoại giao của ông phải là người
hiểu biết đầy đủ toàn bộ tình hình, đồng thời phải được Đinh Tiên Hoàng đế tín
nhiệm cho nên vị sứ thần đầu tiên là Đinh Liễn con trai cả của Đinh Bộ Lĩnh,
người đóng một vai trò cực kỳ tinh tế và mang tính then chốt trong mối quan hệ bang
giao 2 nước thời kỳ này.
Trong
lịch sử Trung Quốc, ở thời cuối Đường sang Ngũ đại, do sự suy yếu của chính quyền
trung ương, nên có sự trỗi dậy của thế lực phiên trấn với việc tập hợp và trông
cậy vào lực lượng tư binh (binh lính tư nhân). Nhưng cũng vì quan hệ tồn tại hỗ
trợ lẫn nhau giữa tư binh và phiên trấn, nên các phiên trấn ra sức liên kết tư
binh, họ nhận được nhiều ưu ái, nhưng cũng vì thế mà dễ dẫn đến những xung đột
lợi ích và mâu thuẫn phe phái. Qua đó chúng ta cũng biết được lực lượng Nha
quân là một thế lực hùng mạnh nhưng lại có thể quay lại phản nghịch nếu họ
không có được quyền lợi chính đáng. Chúng ta đều biết thành phần nhóm nòng cốt
của triều Đinh cũng có quan hệ mật thiết với Nha quân. Nha hiệu là lực lượng sĩ
quan quan trọng trong hệ thống tư binh phiên trấn, mà sự thể hiện của Nha hiệu
chính là quan hệ nương tựa thân thiết giữa họ và chủ soái. Vào đầu năm Thái
Bình, khi mà cơ đồ vương nghiệp chưa vững mạnh, lại ở vào thời khắc mà cả hai
nước đều đang diễn ra những thay đổi lớn và nhanh chóng về cục diện chính trị,
đặc biệt là khi triều Đinh phải đối mặt với triều đình Bắc Tống vừa thống nhất,
thì cho dù nhìn nhận từ bất cứ góc độ nào, chúng ta cũng đều thấy triều Đinh yếu
thế hơn, nên mỗi lần đi sứ đều phải liên quan đến việc đàm phán lợi ích song
phương. Do đó, từ việc đi sứ của Đinh Liễn (con trai) đến Trịnh Tú (đồng hương,
nha tướng) rồi đến Vương Thiệu Tộ (Nha hiệu), Giang Cự Hoàng (Nha hiệu), Trần
Nguyên Thái (Phò mã), đại để chúng ta có thể thấy được diện mạo cơ bản trong cơ
cấu quyền lực của nhà Đinh.
Bảng
thụ phong được thống kê như sau:
Thời gian
|
Người thụ phong
|
Chức tước
|
Thực ấp
|
Phong hiệu
|
Khai Bảo 6
973
Thái Bình 6
|
Đinh Liễn
|
Đặc tiến Kiểm hiệu
Thái sư, sung Tĩnh Hải quân Tiết độ, Quản nội quan sát xử trí đẳng sứ, An Nam
Đô hộ, Sứ trì tiết Đô đốc Giao Châu chư quân sự, Ngự sử Đại phu, Thượng trụ
quốc, Phong Tế Âm quận Khai Quốc công.
|
Thực ấp một vạn hộ.
|
Tứ Suy thành Thuận
hoá công thần.
|
Khai Bảo 8
975
Thái Bình 6
|
Đinh Liễn
|
Gia thụ Nam Việt
vương Liễn Khai phủ Nghi đồng Tam ti,
Kiểm hiệu Thái sư, Giao Chỉ Quận vương.
|
|
|
Đinh Bộ Lĩnh
|
Thụ Khai phủ Nghi đồng
Tam ti, Kiểm hiệu Thái sư, phong Giao Chỉ Quận vương.
|
|
|
Tầm vóc và bài học lịch sử
Nói về tầm vóc, chúng ta có thể thấy những nét tương đồng của
Đinh Tiên Hoàng và Tần Thủy Hoàng. Hai người đều là những người mở đầu cho triều
đại mới. Tần Thuỷ Hoàng là người đã lập nên triều đại
phong kiến đầu tiên ở Trung Hoa vào năm 221 tr.CN. Trong khi đó Đinh Tiên Hoàng
năm Mậu Thìn (968) đã lập nên triều Đinh. Chế độ phong kiến nước ta được xem
như ra đời vào thế kỷ thứ X thời Ngô - Đinh - Tiền Lê. Hai ông cũng là hai vị Hoàng
đế đầu tiên của chế độ phong kiến ở hai nước. Đều là những nhà
quân sự tài giỏi của nghệ thuật xây thành: Đinh Tiên Hoàng vốn là người con của
vùng đất Hoa Lư. Khi lên ngôi, ông lấy Hoa Lư làm kinh đô. Trong buổi đầu mới
tạo dựng triều đại, kinh thành Hoa Lư được xây dựng không chỉ làm trung tâm đất
nước mà còn là một căn cứ quân sự hiểm trở để phòng chống sự tấn công từ bên
ngoài.
Thành Hoa Lư được xây dựng bằng
cách nối lại các dãy núi đá trong tự nhiên bằng tường thành nhân tạo, từ đó tạo
nên thành ngoại là thành Đông, vòng thành trong là thành Tây, thành Nam (thành
Tràng An) mà đến nay di sản để lại của ông nằm trong vùng lõi của Di sản văn
hóa và thiên nhiên thế giới Quần thể danh thắng Tràng An, Việt Nam. Đối với Tần
Thuỷ Hoàng, sau khi dẹp được các nước lân bang, thống nhất Trung Hoa, để ngăn
ngừa giặc Hung Nô từ phương Bắc lấn chiếm, ông cho xây dựng Vạn Lý Trường Thành
cũng bằng cách nối lại các đoạn thành sẵn có của các nước chư hầu trước đó và
để lại di sản thế giới Vạn Lý Trường thành, Trung Hoa ngày nay.
Cả
Đinh Tiên Hoàng và Tần Thủy Hoàng khi làm vua đều dùng chính sách cai trị bằng
pháp luật nghiêm khắc. Họ đều ở ngôi trong 12 năm. Cả hai triều đại Tần và Đinh
đều tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi, nhưng mang ý nghĩa trọng đại trong
lịch sử. Triều Đinh chính là khởi đầu của nhà nước phong kiến trung ương tập
quyền đầu tiên và Đinh Tiên Hoàng là người mở nền chính thống cho các triều đại
phong kiến trong lịch sử Việt Nam. Với ý nghĩa tương tự, Tần Thủy Hoàng đã mở
ra gần hai thiên niên kỷ cai trị của phong kiến Trung Quốc.
Quay
lại thời điểm thế kỷ X giữa nhà Đinh và nhà Tống, nhìn lại quá trình thiết lập
ngoại giao giữa vương triều Đinh với nhà Tống được phản ánh qua thư tịch cổ của
Việt Nam và Trung Quốc, chúng ta có thể nhìn thấy tầm vóc ngoại giao của Đinh
Tiên Hoàng và rút ra một số giá trị, bài học như sau:
Thứ
nhất, việc thiết lập mối quan hệ hoà hiếu với nhà Bắc Tống được triều Đinh chú
trọng thực hiện ngay sau khi thiết lập hệ thống chính quyền, nhằm đảm bảo hoà
bình cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, củng cố độc lập, tự chủ dân
tộc. Đinh Tiên Hoàng, vị vua khai sáng nhà Đinh đã rất khôn khéo và nhạy bén
trong việc cử sứ thần sang thăm hỏi, biếu các sản vật địa phương, sang chúc mừng
tân vương… tất cả đều nhằm gây dựng mối quan hệ hoà hiếu và mong muốn nhanh
chóng có được sự công nhận chính thức, hợp pháp địa vị của mình so với các nước
lân bang khác.
Thứ
hai, từ thân phận của các sứ thần được cử đi sứ trong triều đình nhà Đinh, (từ
con ruột, đồng hương, cho đến các Nha tướng (Nha hiệu) thân tín và Phò mã), cho
thấy Đinh Tiên Hoàng đã rất nhạy bén (đối với triều đình phương Bắc) nhưng cũng
rất thận trọng (đối với tình hình nội chính trong nước) trong việc lựa chọn người
đi sứ. Trong bối cảnh lịch sử khi mà chế độ khoa cử chưa được tổ chức thực hiện,
triều Đinh non trẻ được gây dựng nên từ những cuộc tranh giành giữa các sứ quân,
chưa có những quan lại xuất thân khoa bảng am tường “Thi Thư” để lo công việc chuyên đối, thì việc cắt cử những người
thân tín và phải am hiểu tình hình nội chính cũng như mạnh mẽ bản lĩnh (Nha tướng)
trước áp lực khi phải đối diện với vua quan triều đình phương Bắc là điều chắc
hẳn rất được Đinh Tiên Hoàng và con trai ông - Đinh Liễn cân nhắc lựa chọn. Mức
độ thân tín và chức vụ quyền hạn của các sứ thần được cử sang nhà Tống cũng giảm
dần theo thời gian cho thấy tài ngoại giao khéo léo và tinh tường của nhà vua.
Thứ
ba, việc thiết lập ngoại giao và thực hiện triều cống của nhà Đinh với nhà Tống
được thực hiện nhanh chóng và liên tục (trong vòng 13 năm triều Đinh lập quốc,
tổng cộng có 5 lần đi sứ, với tổng là 8 lượt người). Điều này góp phần cho nhà
Tống nhìn nhận rằng đó là biểu hiện của sự trung thành và thần phục, giúp cho
Đinh Tiên Hoàng có thời gian và tập trung sức lực trong việc củng cố xây dựng
vương triều non trẻ của mình. Nhà Đinh đã mở đầu cho truyền thống “trong xưng đế,
ngoài xưng thần” là một trong những truyền thống ngoại giao của các triều đại
phong kiến Việt Nam.
Quá
trình thiết lập ngoại giao của triều Đinh mà đứng đầu là Đinh Tiên Hoàng, giúp
cho chúng ta rút ra bài học rằng ngoại giao, nhất là ngoại giao với cường quốc
cần phải được tổ chức nhanh chóng, bài bản, nhưng đồng thời cũng phải hết sức
thận trọng và khôn khéo để có thể giành được sự tin tưởng của đối phương mà
không làm mất đi hình ảnh thế đứng độc lập của nước mình, mà ngày nay chúng ta
gọi là “ngoại giao cây tre” - vừa mềm dẻo, vừa cứng rắn bản lĩnh.
Tổng hợp tin bài: Trần Thị Thanh Nga
Nguyễn Thị Vân