Gmail

Fanpage

Liên hệ

image banner
     
image banner
image banner
image banner
Khái quát về dự án SUNDASIA tại Di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới Tràng An
SUNDASIA, một dự án được Hội đồng Nghiên cứu Xã hội & Nhân văn Vương quốc Anh tài trợ tại địa phương thông qua sự hỗ trợ của Doanh nghiệp Xây dựng Xuân Trường, nhằm mục đích mở rộng những khám phá thời tiền sử đã giúp Tràng An trở thành một di sản văn hóa đặc biệt ở Đông Nam Á.

Nghiên cứu có hai mục tiêu ban đầu:

          a. Sử dụng bằng chứng khảo cổ học để khám phá cách thức các cộng đồng thời tiền sử thích nghi với các chu kỳ biển tiến trong quá khứ

          b. Để xác định xem những dữ liệu này có thể giúp cung cấp thông tin về các mô hình đối phó với tình trạng nước biển dâng hiện tại do khí hậu gây ra ở khu vực này.

          Nghiên cứu được thực hiện có tính hợp tác cao, với sự tham gia của chính quyền tỉnh Ninh Bình, các đối tác trong nước cũng như quốc tế, chủ yếu là đến từ Anh trong giai đoạn sau khi được ghi danh - và tuân theo các khuyến nghị của UNESCO năm 2014.

anh tin bai

          Giá trị văn hóa của Tràng An

          Để đạt được những mục tiêu này, đoàn nghiên cứu đã tiến hành các cuộc khai quật khảo cổ tại 7 địa điểm trong phạm vi Tràng An, có niên đại cách ngày nay từ 5000 năm cho tới 37.500 năm. Trong quá trình điều tra, chúng tôi đã phát hiện hài cốt của 11 cá thể, trong đó có một bộ xương được bảo quản đặc biệt tốt ở hang Thung Bình 1, và một cá thể khác ở Hang Mòi.

          Chúng tôi xác định rằng mặc dù con người tiền sử sử dụng nhiều vật liệu địa phương (đặc biệt là đá vôi) để chế tạo công cụ, tuy nhiên tồn tại ít nhất một loại công cụ đá (bazan) đã được đưa đến Tràng An từ khoảng cách 85 km (ở tỉnh Hòa Bình). Khả năng con người hoặc vật liệu đã di cư tự do tại cảnh quan này vào thời tiền sử - (có thể đã tồn tại một mạng lưới trao đổi thời tiền sử?) – khả năng này cũng được minh chứng rõ qua việc phát hiện các vỏ sò biển đục lỗ ở hang Thung Bình 1 vào thời điểm hang động này đang cách xa bờ biển tới 500 km.

          Đoàn nghiên cứu cũng đã thực hiện lập bản đồ địa hình kỹ thuật số – công việc này đã giúp đoàn nhanh chóng rút ra được nhiều kinh nghiệm, do xảy một số vấn đề với cảm biến từ xa trong khu vực cảnh quan núi đá vôi, đặc biệt là mất tín hiệu. Tuy nhiên, thông qua sự kết hợp giữa dữ liệu từ máy bay không người lái và công nghệ LiDAR, hơn 50% diện tích di sản đã được khảo sát ở độ phân giải 0,5m/pixel, qua đó cung cấp bản đồ có độ phân giải cao và cơ sở dữ liệu GIS để có thể thiết lập dữ liệu khảo cổ và môi trường cũng như mối quan hệ giữa các địa điểm được khảo sát trong không gian ảo.

          Cùng với khảo sát khảo cổ và khảo sát trên cao, nhóm nghiên cứu đã lấy 5 lõi trầm tích để kiểm tra môi trường sống trước đây trong khu vực khối núi đá vôi, môi trường sống lâu đời nhất trong số này, có niên đại từ 26.000 năm trước. Kết hợp lại, những dữ liệu này cho thấy rằng rừng bao phủ Tràng An ngày nay nhìn chung ở trong tình trạng tương tự so với rừng bao phủ khu di sản trong vòng 20.000 năm qua.

           Mặc dù điều này cho thấy di sản và hệ sinh thái độc đáo của nó có vị trí phù hợp để chống chọi với những thách thức do biến đổi khí hậu thế kỷ 21, một đặc điểm khác biệt lớn đã được xác định thông qua nghiên cứu khảo cổ học đó là: trong giai đoạn 18-11.000 năm trước đã có ít nhất 19 chi của động vật có vú lớn hơn 2 kg sống trong rừng Tràng An (bao gồm hổ, báo, hươu, lợn rừng); ngày nay chỉ còn lại 6 chi (dựa trên các nguồn dữ liệu địa phương và ảnh từ bẫy camera của chúng tôi). Hiện tượng này không chỉ giới hạn ở Tràng An hay Việt Nam mà còn phổ biến ở các vùng nhiệt đới khác.

          Điều chưa rõ là việc mất đi rất nhiều loài động vật (tất cả đều rất quan trọng đối với sự bền vững của hệ sinh thái địa phương) sẽ ảnh hưởng như thế nào đến sự ổn định của rừng và khả năng tồn tại của cộng đồng sinh thái trong rừng trong điều kiện khí hậu thay đổi.

          Ngoài việc khảo sát trên không, nhóm nghiên cứu còn lập sơ đồ vị trí, độ cao và góc nghiêng của nhiều ngấn nước biển được tìm thấy xung quanh sườn (và đôi khi bên trong) khối núi.

          42 địa điểm đã được lập bản đồ, tiết lộ lịch sử phức tạp của hiện tượng biển tiến theo thời gian (từ 45.000 năm trước đến gần đây nhất là 2.000 năm trước). Ít nhất 5 đường bờ biển khác nhau có thể được tái dựng lại theo thống kê từ dữ liệu ở các độ cao 6m, 5,6m, 4,6m, 3,2m và 2m trên mực nước biển –  đây là những giai đoạn mà Tràng An có thể (ở các mức độ khác nhau) là một quần đảo . Cho đến nay, mới chỉ có một vài độ cao (của ngấn nước biển) đã được xác định niên đại và cần phải nghiên cứu thêm về mặt này để có được bức tranh toàn diện về mối quan hệ lâu dài của Tràng An với biển.

          Để hiểu rõ hơn về dữ liệu thời tiền sử và hỗ trợ công tác quản lý, nhóm dự án đã xây dựng các bộ sưu tập tham chiếu về đa dạng sinh học hiện đại và các điều kiện sống tại địa phương. Công việc bao gồm nhận dạng trên 170 loài thực vật, 27 tháng giám sát đa dạng sinh học gần tuyến đường giao thông chính xuyên qua khu di sản, (như đã đề cập trước đó) 8 tháng nghiên cứu bẫy camera  trong khu vực trung tâm của di sản, một cuộc khảo sát về các loài chim, mang lại kết quả là số lượng 78 loài được nhận diện, trong đó bao gồm nhiều loài chim săn mồi khỏe mạnh, ngoài ra còn có các dữ liệu về khí hậu địa phương (đo lường sự thay đổi về nhiệt độ, độ ẩm và điểm sương) trong suốt một năm (hiện đề tài nay đang được nghiên cứu trong một luận án Tiến sĩ).

anh tin bai

          Phối hợp với Ban quản lý, dự án SUNDASIA cũng đã tổ chức và tài trợ đào tạo cho 140 nhân viên địa phương về quản lý di sản văn hóa và thiên nhiên, đồng thời thực hiện một cuộc khảo sát chi tiết để đánh giá vai trò của du lịch sinh thái và quản lý cộng đồng địa phương trong phát triển bền vững.

          Hồ sơ phát triển bền vững SUNDASIA là một khía cạnh quan trọng của dự án. Phạm vi ban đầu của nó bao trùm 4 Mục tiêu Phát triển Bền vững của Liên hợp quốc (1,2,11,13) và đã mở rộng lên thành 8 (thêm 8,12,15,17) thông qua quá trình làm việc và phát triển các dự án 'spin-out', ví dụ dự án du lịch sinh thái, ngoài ra dự án còn tạo ra một cuộc điều tra lớn về nghiên cứu di truyền DNA cổ đại, đưa vào chương trình tái thả các loài động vật, và thực hiện các triển lãm mà tôi sẽ đề cập ngắn gọn ở đây.

          Việc tái thả các loài trở lại Tràng An có ý nghĩa trên nhiều cấp độ: Là một phương pháp để đối phó với những mối nguy hiểm đối với sự ổn định và bền vững lâu dài của hệ sinh thái rừng; là một trong những khu vực an toàn và được bảo vệ nhất trong cả nước, đây cũng là một trong những cơ hội tốt nhất để áp dụng các biện pháp tái thả (điều này cũng giúp giảm bớt áp lực cho các trung tâm cứu hộ động vật, chẳng hạn như các trung tâm ở Cúc Phương); dự án mang lại cơ hội để tạo ra và nghiên cứu các quần thể động vật mới dựa trên các kiến thức khoa học (bao gồm cả khảo cổ học và môi trường cổ sinh), do đó cung cấp một cơ hội tuyệt vời cho sự hợp tác giữa các lĩnh vực kiến thức khác nhau; và tất nhiên, nó có thể mang lại lợi ích cho nền kinh tế địa phương thông qua việc thuê nhân sự, quản lý và tạo ra doanh thu (ví dụ: lượng du khách sẽ tăng trưởng đa dạng hơn).

          Vào tháng 8 năm 2020, một nỗ lực chung giữa vườn quốc gia Cúc Phương và chính quyền Ninh Bình, cùng với Trung tâm cứu hộ động vật có nguy cơ tuyệt chủng và SUNDASIA, dưới sự dẫn dắt chuyên môn và kinh nghiệm của Tilo Nadler và nhóm của ông, đã tiến hành thử nghiệm tái thả loài voọc mông trắng cực kỳ nguy cấp vào Tràng An. Dự án thiết lập một nhóm nhỏ gồm ba cá thể trên Đảo Ngọc. Kể từ đó, nhóm cá thể phát triển mạnh và đã có 3 lần sinh nở. Dựa trên thành công này, các thỏa thuận dài hạn hơn đang được thảo luận và một chương trình tương tự đang được xem xét trước dành cho một loài linh trưởng cực kỳ nguy cấp khác là loài vượn má trắng phương Bắc.        

          Một điểm quan trọng cần ghi nhớ ở đây là cả hai loài này đều từng cư trú ở Tràng An. Những sáng kiến này chỉ đơn giản là tái thả chúng về môt trường sống truyền thống.

          Và đây chính là thời điểm mà khảo cổ học và môi trường cổ sinh thái học vào cuộc, bởi vì bằng cách sử dụng các bằng chứng từ quá khứ, chúng ta cũng có thể xác định loài nào đã hiện diện trong cảnh quan này và đánh giá liệu việc tái du nhập trong điều kiện hiện đại có phải là một đề xuất khả thi hay không. Hai loài hươu sau đây chính là một trường hợp điển hình. Hươu mang lớn (hiện đang ở mức cực kỳ nguy cấp và chỉ phân bố ở dãy núi Trường Sơn) và hươu nước (không còn tồn tại ở Việt Nam) đều từng sống trong rừng Tràng An. Sự ổn định lâu dài của những khu rừng đó, cùng với việc cân nhắc những yếu tố khác, việc tái thả có thể được xem xét.

anh tin bai

          Tuy nhiên chúng ta còn có thể tiến xa hơn nữa, bởi vì dữ liệu về mẫu đất từ Tràng An cũng chứng minh rằng các yếu tố rừng ngập mặn vẫn tồn tại ở một số khu vực của khối núi Tràng An cho đến tận 300 năm trước. Đó chính là dấu tích về lần cuối cùng nước biển lấn vào khu vực này của tỉnh Ninh Bình, cách đây 6000-4000 năm. Việc tái trồng lại các loài này, trong phạm vi một chương trình quản lý bền vững lớn hơn sẽ mang lại lợi ích kinh tế và sinh thái để đối mặt với những thách thức của thế kỷ 21 là biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng.

          Ngoài việc Dự án cung cấp kinh phí và nội dung cho một triển lãm và các tư liệu đi cùng với công tác tái thả loài Vooc quần đùi trắng vào Tràng An, các nghiên cứu khảo cổ học về Tràng An cũng đã được chuẩn bị cho một triển lãm khác. Tính đến tháng 10 năm 2023, đã có bốn thiết bị màn hình cảm ứng lớn hiển thị câu chuyện về Tràng An dưới dạng bản đồ tương tác song ngữ diễn giải các khía cạnh khác nhau về quá khứ và tương lai của khu di sản; 14 mô hình nhỏ tỷ lệ 1/5 được đặt làm mô tả các khía cạnh của cuộc sống thời tiền sử; một cuốn sách minh họa dài 212 trang; và mô hình tái tạo khuôn mặt của cá thể người tiền sử 12.000 năm tuổi mà chúng tôi phát hiện ở hang Thung Bình 1.

          Nghị quyết 30-NQ/TW (2022) của Bộ Chính trị đã liệt kê Tràng An là địa điểm quan trọng cần bảo tồn di sản văn hóa bền vững giai đoạn 2021-2025. Với các nghiên cứu được thực hiện tại di sản giai đoạn trước khi được ghi danh và đặc biệt là giai đoạn sau năm 2016, Tràng An có vị thế tốt để trở thành nền tảng diễn giải di sản văn hóa lịch sử và tiền sử của Ninh Bình tới công chúng, thông qua các tài liệu quảng cáo, các triển lãm và tối ưu là qua một bảo tàng cấp tỉnh với một sức sống hoàn toàn mới.

          Giá trị thiên nhiên của Tràng An

          Ngoài giá trị văn hoá, Trang An đồng thời còn có những giá trị tự nhiên nổi bật. Tầm quan trọng của các Di sản Thế giới đối với việc bảo tồn sự đa dạng sinh học trên toàn cầu đã được nêu trong ấn phẩm chung của UNESCO và IUCN năm ngoái (2023). Ở Tràng An, nơi các giá trị sinh thái đã được công nhận ngay cả khi chúng không phải là một phần của giá trị nổi bật toàn cầu, những bước tiến đặc biệt đã được thực hiện.

          Ban quản lý và các cơ quan chính phủ đang giải quyết nguy cơ 'Rừng trọc' mà rất nhiều khu bảo tồn nhiệt đới đang phải đối mặt thông qua chương trình tái thả các loài.

          Kế hoạch Quản lý 2021-25 đã ghi nhận mối quan hệ lâu dài của Tràng An với hiện tượng biển tiến cũng như những hậu quả và tác động tiềm ẩn mà mực nước biển dâng trong tương lai có thể gây ra đối với cơ sở hạ tầng.

          Và rộng hơn, giá trị của các bằng chứng thời tiền sử đối với các chiến lược quản lý đối với các lĩnh vực như chuyển động trầm tích, thay đổi và ổn định khu vực ven biển (ví dụ, thông qua phục hồi rừng ngập mặn), đang cung cấp dữ liệu cơ bản quan trọng có thể giúp các nhà quản lý khu di sản và các bên liên quan lập kế hoạch chủ động cho tương lai.

          10 năm kể từ khi được ghi vào Danh sách Di sản Thế giới, Tràng An đang ở vị trí thuận lợi để đảm nhận vai trò dẫn đầu trong các sáng kiến mang tầm quốc gia và quốc tế nhằm bảo vệ và giới thiệu các giá trị di sản đồng thời hướng tới đối phó những thách thức của Thế kỷ 21 sẽ ảnh hưởng đến tất cả chúng ta.

Tổng hợp tin bài:

Ryan Rabett (Queen’s University Belfast)

Duy Linh (BQL Quần thể danh thắng Tràng An)

   

  • Từ khóa :
Tin mới